2014-08-01 20:43:53

Cây đa làng gọi về hồn quê


Đã từ lâu, trong kí ức của tôi, lũy tre làng, cánh đồng bát ngát đã hằn sâu trong nỗi nhớ, trong kỷ niệm về tuổi thơ và làng quê yêu dấu. Không chỉ có vậy, cây đa làng có mặt ở quê tôi tự bao giờ vẫn còn đó và trở thành dấu ấn làng quê nơi trung du thôn dã.

Cây đa có tự bao giờ, chúng tôi không được biết, người dân quê tôi cũng không ai biết. Hỏi ai cũng đều trả lời là khi sinh ra và lớn lên đã thấy cây đa ngay cổng làng xanh tốt. Bà nội tôi bảo, ngày xưa đàn chim đi kiếm mồi, cắp theo hạt đa chín mọng ở vùng nào, bay qua làng mình, vô tình đánh rơi hạt xuống đất, hạt giống yêu đất quê nên bén rễ nảy mầm mọc thành cây đa cổ thụ cho đến ngày nay.

Mọc ngay đầu làng, gần miếu thiêng, cây đa quê tôi có tán rộng, thân to, phải năm sáu người ôm mới xuể, lá xanh tốt tỏa bóng một vùng. Nằm giữa ngã ba của làng nên gốc đa quê tôi là nơi tụ họp và sinh hoạt văn hóa thường ngày của người dân. Mỗi khi đi làm đồng về, trưa hè oi ả, người dân không quê ngả cuốc ngồi giải lao, hóng mát dưới gốc đa, nói vài câu chuyện ở làng quê mình. Cũng ngay dưới gốc đa quê tôi, vào mỗi ngày chẵn, chợ phiên lại diễn ra tấp nập, đông vui, đậm chất quê.

Tuổi thơ chúng tôi gắn bó sâu đậm với gốc đa làng. Đó là những kỷ niệm tuổi thơ không bao giờ phai mờ trong kí ức. Ngày bé, chúng tôi thường hai tụ tập dưới gốc đa vào mỗi trưa hè, mỗi đêm trăng để trơi đánh khăng, đánh đáo rồi tổ chức chơi những trò chơi tập thể khá vui nhộn. Ngày đó, chúng tôi thường dùng những bài đồng dao như thả đỉa ba ba, nu na nu nống để chơi trò chơi. Có khi còn chơi ú tim ngay quanh hốc của cây đa. Mỗi buổi chiều về, dưới tán đa xòe rộng râm mát, lũ trẻ chúng tôi sau khi cho trâu tắm mát đã tụ tập để thả diều. Đôi khi còn mạo hiểm trào vào lòng cây đa, đu dần lên cao để tìm tổ chim, tổ sáo và hái quả đa chín ăn vừa thơm vừa ngọt.

Dưới gốc đa quê, miếu thiêng làng tôi trầm mặc có tự thuở nào. Bà tôi thường bảo, ngôi miếu thiêng lắm, đây là nơi thờ thần, những người có công giúp cho dân làng mình được no ấm. Bà tôi cũng bảo “thần cây đa, ma cây gạo”, cây đa cổ thụ làng mình là nơi các vị thần hay ngự nên các cháu không được phạm đến thân cành của cây. Nghe thấy thế, chúng tôi sợ lắm nhưng với sự hồn nhiên của trẻ thơ, gốc đa quê vẫn là nơi chúng tôi vui chơi và gắn bó. Vào ngày rằm, mùng một, người già quê tôi đến miếu thiêng bên gốc đa cúng lễ. Mùi hương trầm thơm ngào ngạt và tiếng chuông lan tỏa khắp không gian. Ngước nhìn những pho tượn uy nghiêm và tán đa cổ thụ, chúng tôi hình dung ra những vị thần đang về để phò giúp cho dân làng mình.

Ngày rằm tháng bảy, tết vu lan, năm nào cũng vậy, bà tôi và những người dân quê mang đồ lễ ra gốc đa cúng. Rồi bà dùng lá đa, cuốn thành hình cái phễu, cài vào những cây nhỏ rồi cắm xung quanh gốc đa. Chúng tôi ngơ ngác không hiểu bà làm như thế để làm gì. Sau đó, bà múc những muôi cháo nhỏ vào những chiếc phễu lá đa và cắm lên đó một que hương. Bà bảo làm vậy là để cho những chúng sinh, oan hồn không nơi cúng giỗ được ăn cháo. Hiểu điều đó, càng làm cho chúng tôi thêm yêu, thêm quý gốc đa làng mình.

Cây đa làng tôi còn nơi diễn ra ngày hội làng vào mỗi dịp tháng giêng. Khi ấy, cả làng nghỉ làm đồng, tập trung dưới gốc đa để làm lễ rước thánh, rước thành hoàng làng về đền. Nhiều trò chơi dân gian như chọi gà, đấu vật, cờ người. Nhìn những lá cờ hội sặc sỡ sắc màu, khói hương nghi ngút, tiếng trống vang lên cùng tán đa cổ thụ xanh tốt, chúng tôi thầm hiểu đó là hồn làng, đó là quê hương mình.

Gốc đa quê tôi còn là nơi hò hẹn và ghi dấu biết bao mối tình. Dưới đêm trăng, bên gốc đa, những đôi trai gái gặp gỡ, thề hẹn và trao nhau mối tình đầu. Họ lấy nơi đây, bên cây đa làng làm nơi bắt đầu cho một tình yêu đẹp. Cây đa như một chứng nhân cho biết bao mối tình của trai gái làng tôi.

Cả làng tôi, ai ai cũng quý, cũng bảo vệ cây đa của làng mình. Nhưng có năm, một người ăn mày không biết ở từ đâu đến, nằm ngủ bên gốc đa, đã nhóm lửa sưởi ấm, lửa bắt vào thân đa khô bên trong cháy rừng rực. Cả làng tôi nháo nhào chạy ra cứu đa. Người dùng xô, người dùng chậu, người dùng vòi nước dập lửa. Chúng tôi biết, ngày ấy đa đau và xót lắm. Nhựa đa ứa ra, lá rụng hết, chim chóc bỏ đi nơi khác. Phải mất gần một năm, đa mới hồi phục và xanh tốt như thường.

Những đêm trăng sáng, mấy bà cháu mang chiếu trải dưới gốc đa ngồi cho mát. Dưới gốc đa, chúng tôi được nghe bà kể chuyện chàng Thạch Sanh sống bên gốc đa lấy được công chúa. Rồi bà kể huyền tích Mẹ Âu Cơ dẫn đàn con lên núi, thấy quang cảnh núi non làng mình đẹp, trù phú, Mẹ dừng chân ở quê mình, dạy dân trồng lúa, dệt vải. Đến một ngày kia, dân làng no ấm, từ gốc đa giữa cánh đồng, Mẹ Âu Cơ bay về trời và để lại dải lụa đào trên ngọn đa. Mỗi đêm trăng như thế, dưới gốc đa quê, chúng tôi như được lạc vào miền cổ tích tự bao giờ.

Chúng tôi khôn lớn từng ngày, cây đa làng tôi hôm nay vẫn còn đó, xanh tốt, thân xù xì. Mỗi khi đi xa về, đến đầu làng, nhìn thấy cây đa, tôi và những người dân quê như quên hết những mệt nhọc, những lo toan và cả những bụi bặm thường ngày. Và mỗi khi nhớ về quê hương, cây đa làng lại chập chờn ẩn hiện trong kí ức, gọi tôi về trong hành trang tuổi thơ.

Nguyễn Thế Lượng

Trường THPT Hạ Hòa-Phú Thọ


Sửa lần cuối 2014-08-01 18:44:21

Bình luận

Bình luận qua Facebook