2014-01-27 13:57:09

Hưng Yên quê tôi

"Quê hương là chùm khế ngọt... Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người". Bài hát quên thuộc, nổi tiếng, nghe cũng hay, chỉ trừ câu cuối. Thực ra không cần dạy như thế. Người ta nhớ quê hương xứ sở vì đấy là quê hương, không phải vì chua hay ngọt. Quê hương dẫu là chùm khế chua (nhiều khi chua thật) thì người ta vẫn nhớ. Đông tây kim cổ không thiếu chuyện minh họa cho ý ấy.

"Đại Việt sử ký toàn thư" có chép về ông Trần Cụ đời Trần, quê ở Cứu Liên. Ngày trẻ vốn có hận với quê. Khi được vời về kinh làm quan đã thề rằng không bao giờ còn đặt chân lên đất Cứu Liên nữa. Nhưng sau này không về không được. Khổ nỗi đã trót thề mất rồi. Nên về quê thì đi thuyền, từ thuyền về nhà đi kiệu, từ kiệu bước sang giường. Ăn ngủ nghỉ ngơi đều trên giường cả. Muốn ngắm vười ngắm ao sai người khênh giường ra, hết hứng khênh vào. Rồi lại lên kiệu, xuống thuyền, về kinh... Cứ thế suốt đời mà không bao giờ đặt chân lên đất Cứu Liên. Tôi cũng đọc một truyện ngụ ngôn của người Tây, đại để: Cha con nhà bọ hung ngày ngày ngày lặn lội trong bãi phân. Bọ hung con phát ngán bảo cha: "Sao không di cư sang quả táo hay quả lê, vừa thơm vừa ngon mà ở"? Bọ hung cha trả lời: "Không được. Tổ quốc thì không ai có quyền lựa chọn". Vâng chính vậy. Tổ quốc hay thì ta được hưởng mà dở thì đành phải chịu. 

Nhưng riêng Hưng Yên quê tôi thì khác. Dân cư hiền hòa đông đúc. Đất vuông vạn dặm có sông Hồng bồi đắp. Sản vật ngon không gì bằng nhãn lồng, dong riềng, khoai nước… Địa danh nổi tiếng phải kể đến đầm Dạ Trạch, bãi Đà Mạc [i], làng Tây Kết [ii], phố Hiến[iii]… Nhân danh có Chử Đồng Tử, hai đại tướng quân Nguyễn Khoái, Phạm Ngũ Lão[iv], danh y Hải Thượng Lãn Ông[v], Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm[vi], hai thủ lĩnh nghĩa quân Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám[vii], các đại văn hào  Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan[viii]... Nhiều không kể xiết.

Sản vật nổi tiếng nhất của Hưng Yên có lẽ là nhãn lồng. Tương truyền gọi là nhãn lồng vì mùa nhãn chín, dơi bay đến phá nhiều, mỗi chùm phải làm một cái lồng để giữ. Nhưng đấy cũng có thể do dân gian giầu trí tưởng tượng nghĩ ra. Có một điều chắc chắn là nhãn lồng quả to, hạt nhỏ, vỏ mỏng cùi dày, nước mọng và ngọt, thiên hạ quả không đâu có. Ngon nhất là nhãn ở phố Hiến, ngày xưa vẫn làm sản vật tiến vua.

Là người Việt ai chẳng nghe truyện Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung. Tương tryuền vào thời Hùng Vương quê tôi có một người con hiếu tử, gọi là thằng bé Chử hay Chử Đồng Tử. Mẹ chẳng may mất sớm, chàng sống với cha. Nhà nghèo đến mức hai cha con chỉ có một tấm khố che thân. Vì rằng nước ta văn hiến, từ thời thượng cổ đại cũng không ai cởi truồng đi đường. Vì vậy cha muốn đi đâu mặc khố vào thì con phải ở nhà, và ngược lại con đi thì cha ở. Khi cha mất, chàng Chử chẳng lỡ để cha trần trụi, mặc khố cho rồi mới chôn. Còn mình không quần không áo, làm nghề mò cá, suốt ngày lặn lội dưới sông. Một hôm công chúa Tiên Dung ngự thuyền rồng suôi dòng. Chàng Chử chẳng biết chạy đâu, liền đào cái hố trên bãi sông, chui xuống, lấp cát lên. Chẳng ngờ công chúa ra lệnh cắm thuyền, lên bờ quây lều tắm, quây đúng vào chỗ chàng Chử ẩn. Nước chảy, cát trôi, chàng Chử hiện ra. Công chúa cho cuộc gặp gỡ là duyên kỳ ngộ, lấy Chử làm chồng... Đến nay làng làng Vĩnh Yên, xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, đền thờ Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung vẫn bốn mùa hương khói.

Xã Dạ Trạch nguyên là di tích của đầm Dạ Trạch ngày xưa. Đầm nay không còn nữa. Nhưng sử chép lại rằng đấy là một vùng lầy, lau sậy mọc tốt như rừng, dân gian gọi là Bãi Sậy. Giữa có gò cát dựng nhà ở được. Gò có tên là Nhật Dạ, nghĩa là "Một đêm". Tương truyền Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung đến đây, cắm gậy thần xuống đất, đội nón lá lên rồi nằm ngủ. Sáng hôm sau thì hóa. Ngày xưa Triệu Quang Phục chống quân nhà Lương, lúc yếu thế đã rút vào đây tránh giặc. Tương truyền ngài được Chử Đồng Tử báo mộng là sẽ giúp. Quan quân hăng hái, ban ngày ẩn trong lau sậy, ban đêm bơi thuyền độc mộc đột kích giặc. Chờ chúng suy yếu, Triệu Quang Phục đánh ra, thu lại được thành Long Biên. Sau này thực dân Pháp xâm lược, Nguyễn Thiện Thuật khởi nghĩa cũng lấy đây làm căn cứ địa, vì thế mới gọi là cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Tuy cuối cùng sự nghiệp chẳng thành, nhưng cũng làm giặc thất điên bát đảo

Những việc trên đều chép trong sách vở. Còn nhiều truyện truyền miệng trong dân gian. Như quê ngoại tôi chẳng hạn, dẫu rất nghèo nhưng cũng có truyền thuyết hay. Quê mẹ tôi xưa gọi là làng Giuống, khổ sở muôn đời, lo miếng ăn không xong, chẳng ai nghĩ đến việc học hành. Bỗng một hôm có chiếu chỉ vua lệnh cho dân chúng đi đón quan trạng vinh quy bái tổ thì ai cũng cho đấy là nhầm, chứ "đất sỏi làm gì có chạch". Nguyên mấy chục năm về trước làng có người đàn bà góa bụa. Vì nghèo quá nên phải mang đứa con trai nhỏ bỏ làng mà đi. Rồi thời giờ thấp thoắt thoi đưa, chẳng ai còn nhớ có người đồng hương như thế. Nào ngờ chính đứa trẻ tha hương cầu thực ngày xưa, giờ đoạt giải khôi nguyên, được vua ban mũ áo, ngựa xe, vinh quy về làng. Khi quan trạng về đến nới chẳng thấy ai ra đón, lấy làm ngạc nhiên. Hỏi bọn lý dịch: "Tại sao không tuân chỉ"? Chúng thưa: "Vì nghĩ rằng đất sỏi không có chạch". Quan trạng liền sai tát nước giếng làng đi thì bắt được một thúng chạch. Lại hỏi: "Thế không chạch thì gì đây"? Rồi sai nọc tuốt sạch bọn lý dịch ra đánh suốt lượt. Đánh xong vẫn chưa nguôi giận, lại đóng đinh vào cột đình, nguyền rủa rằng: "Làng này từ nay trở đi sẽ không có kẻ nào đỗ đạt". Và quả nhiên đến tận năm 1955, khi đình bị phá, do nhà nước phát động chống mê tin dị đoan, làng không có ai phát đạt vì việc học hành. Tất nhiện đây chỉ là truyền thuyết, người nay cũng như người xưa, không ai tin làng mình có trạng. Sau này khi lập lại tỉnh Hưng Yên, người tỉnh tôi mới ra Văn Miếu Quốc Tử Giám tìm kiếm, thấy bia đá "số 6" có khắc: "Khoa thi năm canh tuất, niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 đời Lê Huyền Tông (tức 1670) đỗ tiến sĩ có Nguyễn Chí Trung quê ở làng...Giuống"!

Nước Nam ta nhiều việc chẳng ai ghi chép nên bị phai mờ theo thời gian. Nhưng chính vì thế được pha trộn nhiều yếu tố thần thoại lý thú. Việc đào sông Bắc Hưng Hải quê tôi là ví dụ sinh động. Như mọi người đều biết, hòa bình lập lại (sau chống Pháp), miền Bắc xây dựng công trình đại thủy nông Bắc Hưng Hải, dẫn nước cho ba tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương. Nhưng chẳng mấy ai biết rằng thực ra xưa kia sông đã có rồi, ít ra là đoạn chảy qua làng tôi. Di tích sông cũ hiện vẫn còn, nhìn ảnh vệ tinh càng thấy rõ. Người địa phương gọi là sông Chợ. Bờ bên này là làng tôi, bên kia có một thôn gọi là làng Son. Giữa cánh đồng làng Son có một đàn voi đá ngựa đá tạc rất đẹp, không rõ từ bao giờ. Ngày nhỏ tôi cùng lũ trẻ mục đồng vẫn hay bơi qua sông, ra đấy cưỡi. Tục truyền voi đá ngựa đá là do mười tám ông quận công làng Son hiển danh một thời để lại. Không xa làng Son là làng Tía. Thời ấy đây có bà chúa cực kỳ quyền thế, gọi là bà chúa Tía. Dân hai làng được vua ban cho ân sủng đặc biệt: Đi thiên hạ ăn cơm quán không phải trả tiền, đánh chết người không phải đền mạng. Ở đời này, khi người ta được ân huệ quá lớn thường quên mất mình là ai, sinh nhờn và hay lạm dụng. Trong triều có vị quan trên thông thiên văn dưới tường địa lý, gọi là ông Thượng Cháy. Ông Thượng biết hai làng hiển đạt là nhờ dưới lòng đất có long mạch. Vốn ghét dân hai làng ngang ngược, liền tâu vua đào sông, nói thác ra rằng để các quận công và bà chúa Tía về quê bằng đường thủy cho tiện. Vua thì cũng ngây ngô chẳng hiểu gì, liền chuẩn y. Thế là sông đào, long mạch đứt. Mười tám ông quận công và bà chúa Tía tự nhiên lăn đùng ra chết! Sông ngày xưa thì ngoắt nghéo. Thủa nhỏ tôi vẫn nghe tiền nhân tôi nói: "Bẩy khúc Nga, ba khúc Đội", nghĩa là chảy qua làng Nga uốn bấy khúc, qua làng Đội uốn ba khúc. Nguyên thời phong kiến cũng có tham nhũng (có thể không đến mức độ tệ như bây giờ). Dĩ nhiên chẳng ai muốn người ta đào sông qua ruộng nhà mình. Nếu có tiền thì đút lót cho quan coi việc đào sông. Được tiền quan lại chỉ sang ruộng nhà khác. Đến thời Pháp thuộc, người Pháp cũng nghĩ đến việc trị thủy, định đào lại sông này. Nhưng vì việc lớn quá, đành phải bỏ dở. Dân chúng thì bảo có quỷ thần ngăn trở. Phải đến khi cách mạng thành công, có thể quỷ thần cũng khiếp mà chạy sạch cả, nên mới đào được quy mô như ngày nay

Nhân ngày thành lập Hội đồng hương Hưng Yên tại Ba Lan, chép lại một số việc quê nhà để nhớ đến cội nguồn, thêm tự hào về nơi chôn nhau cắt rốn

Khởi nghĩa Bãi Sậy.


Trương Đình Toe

Chu thích:

[i]  Bãi Đà Mạc ở khúc sông Thiên Mạc (một đoạn sông Hồng), còn gọi là bãi Mạn Trù, huyện Đông An cũ, nay thuộc về Khoái Châu. Nơi đây tháng giêng hoặc tháng hai năm ất dậu (1285) Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng và tất cả quân sĩ đã bỏ mình vì nước, chặn bước tiến của giặc Nguyên, giúp cho hai vua Trần và Hưng Đạo vương Trân Quốc Tuấn rút về Thanh Hoá an toàn.

[ii]   Tây Kết là địa danh lịch sử thuộc huyện Khoái Châu. Tháng năm năm ất dậu (1285) Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn phá quân Toa Đô ở đây. Làng Tây Kết nay không còn, có thể xưa kia nằm bên kia sông Hồng đối diện với làng Đông Kết ngày nay, nhưng vì sông đổi dòng mà cuốn đi chăng?

[iii]   Phố Hiến thuộc thị xã Hưng Yên, ngày xưa khi sông chưa đổi dòng thì nằm kề bên sông. Thời Lê Sơ và thời vua Lê chúa Trịnh là một bến cảng cực kỳ sầm uất, có các thương gia từ Đàng Trong ra, từ nước ngoài đến. Vì thế mới có câu: „Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến”. Phố Hiến ngày nay cách bờ sông vài km. Đây còn nổi tiếng vì là thuỷ tổ của nhãn lồng. Hiện nay ở phố Hiến vẫn còn cây nhãn cổ thụ mấy trăm năm tuổi.

[iv]    Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Khoái là hai danh tướng thời Trần. Phạm Ngũ Lão quê ở Lang Phù Ủng, huyện Đường Hào, nay là huyện Ân Thi. Còn Nguyễn Khoái có công đánh giặc Nguyên, được vua Trần Nhân Tông phong hầu, cho ăn lộc một làng ở Khoái lộ, nay thuộc khoái Châu.

[v]    Hải Thượng Lãn Ông (1720-1791) là tên hiệu của Lê Hữu Trác quê ở làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương, nay thuộc huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Ong là nhà lương y nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam, ngoài ra còn là nhà thơ nhà văn tài hoa. Hải Thượng Lãn Ông để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị lớn cả về y học lẫn văn học.

[vi]   Đoàn Thị Điểm (1705-1748) quê ở làng Hiếu Phạm, xã Giai Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc Hưng Yên, là một trong những nữ thi sĩ nổi tiếng nhất nước Việt. Bà có công dịch từ chữ hán kiệt tác „Chinh Phụ Ngâm” của Đặng Trần Côn. Nhiều học giả cho rằng, bản dịch hay hơn cả nguyên bản!.

[vii]    Nguyễn Thiện Thuật (1844-1926) quê làng Yên Dục, huyện Đường Hào, nay là Mỹ Hào, khởi nghĩa kháng Pháp ở Bãi Sậy. Hoàng Hoa Thám (1885-1913) quê làng Dị Chế, huyện Tiên Lữ, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Thế chống Pháp ở Bắc Giang.

[viii]    Vũ Trọng Phụng (1912-1937) và Nguyễn Công Hoan (1903-1977) là hai nhà văn trứ danh của dòng văn học „hiện thực phê phán” thời Pháp thuộc. Vũ Trọng Phụng quê ở làng Liêu Xá, huyện Yên Mỹ (cùng làng với Hải Thượng Lãn Ông và người viết bài này), còn Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang. 


Sửa lần cuối 2014-01-27 13:05:11

Bình luận

Bình luận qua Facebook