Nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn „Chí Phèo” của Nam Cao được nhiều người biết đến và nhớ lâu. Điều ấn tượng nàng để lại không phải là nhan sắc, cũng không phải nét đẹp dịu dàng truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Nàng khiến người đọc nhớ lâu, nhớ kỹ vì tính dở hơi và cái „nhan sắc” có một không hai của mình. Nhưng văn tài được coi là kiệt xuất của Nam Cao lại chính ở chỗ với một truyện ngắn, ông đã khắc họa nên một nhân vật nữ để đời trong văn học.
Thị Nở và Chí Phèo là hai nhân vật không thể tách rời nhau trong truyện cũng như trong tâm trí bạn đọc Việt Nam các thế hệ tiếp nối nhau, song về Chí Phèo, người viết hy vọng sẽ có dịp phân tích sau. Với nhân vật Thị Nở, Nam Cao xứng đáng được chúng ta đặt bên cạnh Lỗ Tấn của Trung Quốc hay Balzak của Pháp, không một chút e ngại, tự ti. Bởi vì nếu nhân vật A Quy trong A Quy chính chuyện mãi mãi là điển hình về một con người chuyên dùng phép thắng lợi tinh thần làm phương hướng sống, lão Grande trong Ơgiêni Grande của Balzak là hiện thân của sự hà tiện đến khó lý giải thì Thị Nở là biểu tượng về người phụ nữ xấu xí nhưng chân thật, vô tư và cũng cháy bỏng khát vọng yêu thương.

Suốt một thời gian dài, không chỉ người đọc bình thường nhìn thấy ở Nam Cao một cây bút ít cảm tình với phụ nữ, đang tâm miêu tả một người con gái với những từ ngữ biến nàng ngàn đời trở thành cô gái vào loại „xấu nhất trong những người xấu nhất”, mà thậm chí có cả một số nhà phê bình cũng chỉ trích Nam Cao về cái nhìn hẹp hòi, cách miêu tả mang tính bôi nhọ phái đẹp. Ở một mức độ nào đó, ý kiến của các nhà phê bình kể trên không phải là hoàn toàn không có cơ sở. Trong văn học Việt Nam và thế giới, những trang viết thành công nhất, những áng văn hay nhất thường là những đoạn văn miêu tả người phụ nữ đẹp.
Thơ ca sinh ra để ca ngợi cái đẹp, mà cái đẹp có ý nghĩa lớn lao, cao thượng nhất thường là những cái đẹp thuộc sở hữu của người phụ nữ do thiên phú. Bản thân người phụ nữ đã rất đáng yêu, người phụ nữ đẹp lại càng đáng yêu hơn và đáng được dành vị trí cao nhất trong văn học nói chung và thơ ca nói riêng. Truyện Kiều của Nguyễn Du, kiệt tác Chàng Tadeusz của Adam Mickiewicz đều không phải là ngoại lệ. Thậm chí người phụ nữ khi buồn phiền cũng mang vẻ đẹp của riêng mình. Nhưng Nam Cao lại thành công trong một truyện ngắn đề cập đến nhân vật nữ có những tính cách dở hơi và vẻ bề ngoài quả thật hiếm có trong văn học đông tây kim cổ.
Từ khoảng cách thời gian nhìn lại, tài năng không dễ lặp lại của Nam Cao càng được nhìn nhận và đánh giá kỹ hơn. Ông đã khắc họa rất tài tinh hai nhân vật song hành trong một truyện ngắn, trong đó nhân vật Thị Nở là một hiện tượng đặc biệt. Nam Cao mất sớm, nhưng ông đã để lại trong tiếng Việt cách nói ngắn gọn, đầy đủ về những phụ nữ tính cách dở hơi và nhan sắc không được Thượng đế hào phóng ban cho. Cụm từ „xấu như Thị Nở” dần dần trở thành cách nói hàm súc, thật khó lòng thay thế bằng một cái gì khác.

Nhưng gần nửa thế kỷ sau khi truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao ra đời, vào đầu thập kỷ chín mươi của thế kỷ trước, có một nhà thơ đã viết một bài thơ rất hay về Thị Nở. Nhà thơ đó là Quang Huy, và bài thơ có nhan đề: Nỗi niềm Thị Nở.
Toàn văn bài thơ viết theo thể thơ lục bát ấy như sau:
Người ta cứ bảo dở hơi
Chấp chi miệng thế lắm lời thị phi
Dở hơi nào dở hơi gì
Váy em xắn lệch nhiều khi cũng tình
Làng này khối kẻ sợ anh
Rượu be với chiếc mảnh sành cầm tay
Sợ anh chửi đổng suốt ngày
Chỉ mình em biết anh say rất hiền
Anh không nhà cửa bạc tiền
Không ưa luồn cúi không yên phận nghèo
Cái tên mơ mộng Chí Phèo
Làm em đứt ruột mấy chiều bờ ao
Quần anh ống thấp ống cao
Làm em hồn vía nao nao đêm ngày
Khen cho con Tạo khéo tay
Nồi này thì úp vung này chứ sao!
Đêm nay trời ở rất cao
Sương thì đẫm quá trăng sao lại nhòa
Người ta mặc kệ người ta
Chỉ em rất thật đàn bà với anh
Thôi rồi đắt lắm tiết trinh
Hồn em nhập bát cháo hành nghìn năm.

Cái hay cái đẹp của bài thơ, bạn đọc có thể dễ dàng nhận thấy và thưởng thức trọn vẹn, không cần có thêm bất cứ lời bình luận nào. Tôi chỉ xin nghiêng mình bày tỏ sự khâm phục lòng dũng cảm của tác giả bài thơ, bởi vì không phải ai cũng dám lấy Thị Nở ra làm đề tài cho tác phẩm thi ca của mình. Còn một điều thú vị nữa là hình như nhà thơ Quang Huy đã làm một cuộc lột xác kỳ diệu cho Thị Nở chỉ qua một bài thơ ngắn. Nàng từ một cô gái trí tuệ hạn chế, hay nói thẳng là dở hơi, bỗng nhiên vượt lên trên giọng lưỡi chê bai, dè bỉu của thiên hạ, lấy lại sự tự tin vững chắc về giá trị bản thân (Váy em xắn lệch nhiều khi cũng tình).
Chí Phèo nổi tiếng ngông nghênh, coi thiên hạ không ra gì, suốt ngày say xỉn, chửi đổng, rạch mặt ăn vạ, nhưng trong con mắt Thị Nở, chàng bỗng chốc trở nên đáng yêu, thậm chí trở thành niềm tự hào của thị (Làng này khối kẻ sợ anh/Rượu be với chiếc mảnh sành cầm tay/Sợ anh chửi đổng suốt ngày) và thị tự hào rằng không ai hiểu chàng hơn thị /Chỉ mình em biết anh say rất hiền). Phải có tình thương, sự độ lượng, lòng nhân ái cao cả như thế nào mới có thể viết được những câu thơ chan chứa yêu thương như thế về những người suốt bao năm tháng bị coi là thành phần nằm dưới đáy tận cùng xã hội. Tác giả bài thơ đã chứng minh hùng hồn rằng tình yêu, hạnh phúc không phải là đặc quyền của những người giàu có, những cặp trai tài gái sắc. Nó có thể đến với những người một lòng một dạ hướng đến nó, tìm đến nó, phấn đấu để có nó.
Thành ngữ, ca dao Việt Nam vốn độ lượng, nhân hậu trong cái nhìn dành cho những người thiếu may mắn, không có được sự hoàn hảo trong cuộc đời. Thành ngữ có câu: Nồi lành úp vung lành, nồi méo úp vung méo. Ca dao có câu: Chồng còng mà lấy vợ còng/Nằm phản thì chật nằm nong thì vừa. Bài thơ của Quang Huy cũng thấm đẫm tư tưởng nhân đạo của văn học dân gian (Khen cho con tạo khéo tay/Nồi này thì úp vung này chứ sao!)
Tôi là dân Hà Nam chính cống, thậm chí còn ở cùng huyện với nhà văn Nam Cao, tuy một người đầu huyện, một người cuối huyện. Niềm tự hào về một vùng quê đã sản sinh ra nhiều nhà văn nhà thơ lớn như Nguyễn Khuyến, Nam Cao, Nguyễn Bính... khiến tôi đi đâu cũng có thể ngẩng cao đầu. Nhưng hồi trẻ con, ngoài cái tiếng chẳng mấy thơm tho là „dân cầu tõm” ra, tôi còn có hai nỗi khổ: một là trong tên họ của tôi có đệm chữ „Chí” nên bạn bè hay gọi tôi là „Chí Phèo” hay „anh Chí”, hai là tôi hay bị gán ghép với những cô gái nhan sắc có phần hạn chế, dễ để người ta so sánh với Thị Nở. Bây giờ tôi không ở cái tuổi trẻ con ấy nữa để bực mình, tự ái. Cho nên thậm chí tôi rất tự hào vì quê tôi có ông Nam Cao, có ... Chí Phèo và Thị Nở.
Poznań, ngày đầu Năm Mới 2011
TS. NGUYỄN CHÍ THUẬT
Bình luận