![]() |
Than ở bể than ĐBSH là than nâu, loại trầm tích mới ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành đá - Ảnh: L.Q.Phổ |
Theo ông Sơn, khai thác than hầm lò truyền thống là công nghệ đang được VN áp dụng trong khai thác than tại Quảng Ninh nhiều năm qua. Tuy nhiên, theo Đề án phát triển bể than đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) được TKV xây dựng từ tháng 3.2009, các kinh nghiệm của VN trong khai thác hầm lò tại Quảng Ninh chỉ có thể áp dụng hạn chế cho vùng than ĐBSH và cũng cần có sự đầu tư nghiên cứu trong một đề án riêng sẽ được SHE cùng với các đối tác nước ngoài triển khai.
TS Võ Công Nghiệp, nguyên Vụ trưởng Vụ Địa chất thủy văn, Tổng cục Địa chất: Nếu cả đồng bằng Bắc Bộ lún xuống... Khai thác khoáng sản phục vụ công nghiệp hóa là nên làm, đó là điều tốt, nhưng chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng. Những lợi nhuận mà dự án mang lại có bù được thiệt hại hay không? Thậm chí có thể về mặt kinh tế có lợi nhưng bất lợi về xã hội, văn hóa thì không nên cố làm. Sau khi nghiên cứu, phản biện, chúng tôi nêu ra cho phía lập đề án khá nhiều những câu hỏi và nhiều câu hỏi vẫn chưa được trả lời một cách thuyết phục. Khi khai thác khoáng sản phải biết liên kết lợi ích của các ngành khác như nông nghiệp, ngư nghiệp, môi trường. Đồng bằng Bắc Bộ là một trong hai vựa lúa, là một vùng sinh thái rất quan trọng, đụng chạm đến nó có thể gây thiệt hại không lường trước được. Ở ĐBSH, địa hình bằng phẳng, đất cát, thịt mềm bở, khi khai thác, mình phải bơm nước ra, cho mực nước ngầm hạ xuống để xuống đào hầm lò. Khí hóa than ngầm thì cũng phải hút nước ra. Hút nước ra đất bở rời sẽ dễ lún xuống, dễ xảy ra tình trạng phễu hạ thấp theo đường tròn, đất sẽ lún xuống theo hình phễu lan tỏa từ tâm ra xung quanh. Thậm chí cả hệ thống đê điều cũng có nguy cơ bị ảnh hưởng. Nếu cả đồng bằng Bắc Bộ lún xuống, nước biển xâm nhập vào thì đó là điều rất đáng lo ngại. Chúng ta đang gặp vấn đề về nước biển dâng, đáng ra ta phải cho đất cao lên, giờ đất sụt xuống, một mặt nước trên nguồn đổ về, nước biển vào thì cả vùng sẽ ngập. Quá trình lún có thể không diễn ra ngay mà có khi hàng chục năm sau mới lún. Nếu lấy đất đá, phù sa nơi khác về bổ sung lên bề mặt sẽ làm thay đổi thổ nhưỡng, rất khó trồng loại cây vốn đã quen với đất ở vùng này từ trước. Về môi trường: dù khai thác than ngầm dưới đất nhưng người ta vẫn phải đưa khoáng sản lên mặt, đất đá đào lên phải vun lên thành đống, đất thải sẽ thành núi, chiếm diện tích nhiều, bụi bặm... Không chỉ tính đến diện tích làm sân bãi, nhà xưởng mà phải tính cả diện tích làm đường sá, công trình phụ trợ, thậm chí nhà máy, xí nghiệp phục vụ khai thác, vận chuyển. Như vậy rất khó tránh được những xáo trộn về mặt xã hội khi tiến hành khai thác quy mô lớn. Káp Thành Long (ghi) |
Theo ông Sơn, hiểu một cách đơn giản, công nghệ khí hóa than ngầm (UCG) thực hiện như sau: khoan các lỗ khoan dưới vỉa than, sau đó nối các lỗ khoan này lại với nhau rồi đốt vỉa than yếm khí sẽ thu được “khí tổng hợp”. Khí này sẽ được sử dụng làm nhiên liệu.
Đề án phát triển bể than ĐBSH cho biết, công nghệ UCG hiện đang được nhiều nước trên thế giới quan tâm phát triển và áp dụng khai thác than trong các điều kiện tương tự bể than ĐBSH (không thể khai thác bằng các công nghệ truyền thống như lộ thiên và hầm lò). Về mặt kỹ thuật, độ sâu tối ưu để áp dụng công nghệ UCG là từ 600 - 1.200m. Ưu điểm của công nghệ này là sẽ cho phép nâng tổng trữ lượng than cao hơn cách khai thác lộ thiên và hầm lò.
Sản phẩm của công nghệ UCG là “khí tổng hợp” có giá trị sử dụng cao hơn rất nhiều so với sản phẩm của các công nghệ khác chỉ là “than nguyên khai”. “Khí tổng hợp” thu được cho phép áp dụng các công nghệ phát điện hiện đại và tiên tiến nhất với hiệu suất nhiệt cao hơn rất nhiều so với công nghệ lò tâng sôi và lò than phun hiện nay. Vì thế, theo TKV, công nghệ UCG có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc phát triển toàn bộ bể than ĐBSH.
TKV cho biết, việc lựa chọn các loại hình công nghệ thử nghiệm cụ thể được tiến hành trên cơ sở các đặc điểm kỹ thuật về điều kiện mỏ - địa chất và điều kiện mỏ - kỹ thuật tại bể than ĐBSH. Đó là, bể than phân bố trên một khu vực đồng bằng rộng lớn, khu vực chứa than có diện tích tới 3.500 km2. Chiều dày trầm tích chứa các vỉa than tương đối lớn (hơn 2.000m), các vỉa than nằm ở độ sâu rất khác nhau, nông nhất là -120m, sâu nhất từ dưới -2.500m đến dưới -3.000m (về phía biển).
Trong trầm tích chứa than có rất nhiều vỉa than, khoảng 100 vỉa với các chiều dày vỉa khác nhau. Mật độ chứa than tương đối cao, trữ lượng than của toàn bể than cũng như trữ lượng của từng vỉa là tương đối lớn.
Trong các điều kiện như trên, để hạn chế tối đa ảnh hưởng tới mặt đất, việc áp dụng công nghệ khai thác hầm lò truyền thống và công nghệ UCG có 4 loại hình công nghệ cơ bản khác biệt nhau đều có thể áp dụng và cần thử nghiệm. Theo TKV, đó là: công nghệ khai thác hầm lò phần nông (đến độ sâu -600m) bằng các lò chợ ngắn và trung bình; công nghệ khai thác hầm lò sâu (từ dưới độ sâu -600m) bằng các lò chợ dài, cơ giới hóa đồng bộ; công nghệ khí hóa than ngầm áp dụng cho vỉa mỏng, nằm nông; và công nghệ hóa than ngầm áp dụng cho vỉa dày nằm sâu.
Trong bản phản biện Đề án phát triển bể than ĐBSH, Cục Địa chất và khoáng sản VN (Bộ TN - MT) đồng ý với đề xuất thử nghiệm công nghệ khai thác hầm lò và công nghệ UCG nhưng đề nghị chỉ thử nghiệm và phải được tiến hành thận trọng, đảm bảo không xảy ra các sự cố. Kết quả thẩm định do trường Đại học Mỏ - Địa chất thực hiện chỉ rõ: các phương án thử nghiệm khai thác than hầm lò khu Bình Minh (H.Khoái Châu, Hưng Yên), khai thác hầm lò khu mỏ Tây Sa (tỉnh Thái Bình) và khí hóa than mỏ Tiên Dung (Hưng Yên) còn chưa rõ ràng, cụ thể.
Tổng hội Địa chất VN thì cho rằng, TKV đã dẫn ra một số mỏ ở các nước Nga, Trung Quốc, Nhật Bản... khai thác bằng phương pháp hầm lò hoặc khí hóa than ngầm nhưng không nêu và so sánh những đặc thù địa chất, địa chất thủy văn, địa chất công trình và điều kiện sinh thái của vùng mỏ nên chưa đủ cơ sở dựa vào đó để áp dụng cho các mỏ ở ĐBSH trong trầm tích Neogen gắn kết yếu và ngập nước.
PGS-TS Nguyễn Đình Hòe - Trưởng ban Phản biện xã hội Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường VN (thuộc Liên hiệp Các hội khoa học kỹ thuật VN - VUSTA): Tránh trường hợp biến nước ta thành nơi thí nghiệm của nước khác Tôi cho rằng chỉ có phương pháp khí hóa than ngầm là khả thi đối với bể than ĐBSH. Còn phương pháp hầm lò truyền thống không thể áp dụng vì ở ĐBSH, cần phải khai thác ở độ sâu hàng nghìn mét, trong khi khai thác hầm lò ở Quảng Ninh đơn giản hơn rất nhiều nhưng tai nạn lao động và sự cố hầm mỏ vẫn xảy ra. Tuy nhiên, bản thân phương pháp khí hóa than ngầm cũng còn nhiều vấn đề cần lưu ý. Thứ nhất, trong quá trình khí hóa than ngầm, chúng ta phải sản xuất ra một lượng hợp chất chứa oxy đưa xuống và đốt cháy để biến than ngầm thành khí CO cực kỳ độc hại, do đó, cũng gây tác động môi trường. Thứ hai, bản thân khí hóa than ngầm là chất rất dễ cháy nổ nên cần phải lưu ý đến công tác an toàn cháy nổ. Bên cạnh đó, không thể bỏ qua nguy cơ lún sụt do khai thác ngầm (làm rỗng tầng đất). Bể than ĐBSH nằm trong khu vực kiến tạo hiện đại hoạt động mạnh, số lượng các đứt gãy đang hoạt động kéo theo hoạt động nứt đất ngầm theo chiều từ dưới sâu lên mặt đất cũng khá dày đặc. Toàn vùng lại nằm trong đới động đất cấp 7, cấp 8, điều này tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với phương pháp khai thác khí hóa than ngầm. Chẳng hạn, trong quá trình thi công, nếu đường ống bị vỡ do những sự cố như nứt đất, gãy vỡ đường khai thác, khí xì lên... thì công tác quản trị rủi ro và sự cố thế nào? Nếu khí than khai thác được (rất độc hại) theo những khe nứt địa chất xì lên trên mặt đất, tràn vào các vùng dân cư thì phải ứng phó thế nào? Tập đoàn TKV cần tiên liệu những rủi ro này. Ngoài ra, phương pháp để lại những rẻo than làm cột trụ để chống sụt lún cũng phải xem xét thật kỹ, vì than ở đây là than nâu - một loại trầm tích mới ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành đá, có sức chịu tải kém. Ngay cả chuyện cần phải khoan 4.100 lỗ khoan thăm dò - tức gấp đôi tổng số mũi khoan mà ngành than đã khoan trong 120 năm qua, thì liệu chúng ta có quản trị được những “cửa sổ” thủy văn đó không, hay để mọi thứ ô nhiễm trên mặt ngấm xuống dưới, làm hỏng tầng nước ngầm? Tóm lại, công nghệ khí hóa than ngầm đã được thí điểm ở nhiều nước trên thế giới nhưng đến giờ vẫn chưa được hoàn thiện ở mức khai thác thương mại. VN cũng chưa có kinh nghiệm nào về khai thác và quản trị môi trường của khí hóa than ngầm. Do đó, chúng ta phải tránh trường hợp các nước khác chưa tự tin để khai thác thương phẩm nên chủ trương đầu tư sang mình, biến mình thành nơi thử nghiệm và hoàn thiện công nghệ cho họ. Theo tôi, có thể khai thác thí điểm nhưng bước đầu nên xuất phát từ quy mô nhỏ để học tập kinh nghiệm, lựa chọn công nghệ và kiểm soát môi trường. Phải có Đánh giá tác động môi trường cho dự án trong khuôn khổ Đánh giá môi trường chiến lược cho toàn quy hoạch. Bởi vì, khai thác than ở ĐBSH, xét về vấn đề môi trường, có thể còn chứa nhiều tác động lâu dài và nguy hiểm hơn việc khai thác bauxite và chế biến alumin ở Tây Nguyên, nên phản biện xã hội là vô cùng cần thiết. P.Thanh (ghi) |
An Nguyên - Quang Duẩn (Thanh niên)
Bình luận