Nữ nhà văn nhà báo Monika Warnenska.
Có một người phụ nữ Ba lan từng tuyên bố: „Việt Nam là Tổ quốc thứ hai của tôi”. Người phụ nữ đó chính là nhà văn, nhà báo Ba Lan, bà Monika Warnenska. Mùa xuân năm 1962 bà sang Việt nam lần đầu tiên, khi Việt nam đang bị chia cắt làm hai miền Nam Bắc và kết quả của chuyến đi này là tác phẩm Cầu trên sông Bến Hải. Sau chuyến đi năm đó bà có cảm tình đặc biệt với Việt Nam, qua lại Việt Nam rất nhiều lần, thời chiến cũng như thời bình. Một người phụ nữ châu Âu nhỏ nhắn như bà mà dám lặn lội tới những vùng chiến sự ác liệt nhất, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt nhất ở Việt Nam. Bà đã từng ngồi trong địa đạo Vĩnh Linh viết bài dưới làn pháo địch, đi khắp vùng khu bốn ngổn ngang đổ nát do bom thù gây nên. Năm 1965 bà vượt tuyến (sông Bến Hải) vào Nam, bà đi xuyên rừng, bất chấp bom rải thảm của pháo đài bay B52, coi khinh muỗi vắt và gai nhọn của cây rừng, thăm vùng giải phóng.
Bà táo bạo tới độ, có lần từ rừng sâu bà đi cùng các chiến sĩ quân giải phóng đột nhập vào tận cửa ngõ Sài Gòn. Chưa hết, năm 1969 bà đổi họ tên Ba Lan, mang danh một nhà báo Pháp, thâm nhập vào tận Đô thành Sài Gòn để săn tin, viết bài. Đối phương chẳng hề hay biết, người nữ phóng viên ngoại quốc này cách đó không lâu đã từng hiện diện ở Hà Nội, được gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Đại tướng Võ Nguyên Giáp, rồi từ Bắc đã Vượt tuyến vào Nam, đi khắp vùng giải phóng.
Không kể một số lượng lớn các bài báo, tin tức cặp nhật tình hình Việt nam mà bà đã gửi về nước cho báo chí Ba Lan và cả châu Âu, bà Monika Warnenska đã viết hàng chục cuốn sách về Việt Nam. Trong số đó phải kể đến các cuốn: Cầu trên sông Bến Hải (1962), Việt Nam trong trái tim tôi, Mặt trận trong rừng (1965), Khu Bốn (!967), Cuộc hành quân Phục sinh (1968), Người Mỹ không yên lòng (1968 – 1970), Múa lửa (1969 – 1970), Ánh hồng trước bình minh (1972 – 1973), Con gái Ngài thượng quan (1975), Không có hòa bình cho đồng quê (1987) và Mắt hổ (1988). Khi tuổi cao sức yếu bà vẫn không dừng tay viết về Việt nam. Cuốn sách gần đây nhất về Việt nam của bà có tiêu đề: „Vương quốc bị lãng quên” - viết về Vương quốc Champa từng tốn tại ở vùng đất phía nam nước ta.
Đánh giá cao những tình cảm và đóng góp của bà đối với công cuộc đấu tranh và xây dựng của nhân dân ta, năm 1995 nhà nước ta đã mời bà sang Việt nam dự lễ kỉ niệm lần thứ 50 Quốc khánh Cộng hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt nam. Năm 2004 bà Monika Warnenska lại được nhà nước ta mời sang Việt nam dự lễ kỉ niệm lần thứ 50 chiến thắng Điện Biên Phủ. Dẫu tuổi cao, sức yếu, bà vẫn quyết định sang Việt Nam, bởi vì như bà nói: „Tôi lại được đến với Việt Nam thân thương, Tổ quốc thứ hai của tôi”.
Trong cuộc gặp gỡ với các cựu chiến binh chiến trường Điện Biên Phủ, tổ chức ngày 6 tháng 5 năm 2004, bà say sưa kể về những kỉ niệm không bao giờ quên của mình tại Việt Nam. Bà đã hai lần thăm Điện Biên Phủ (1962 và 1967) và chính chiến thắng lẫy lừng này đã là động lực thôi thúc bà sang Việt Nam tới hàng chục lần. Bà lấy làm tự hào khi là một nữ nhà báo và nhà văn, trong thời gian cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt nam bà đã có mặt ở cả ba vùng khác nhau: miền Bắc Việt Nam, tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vùng giải phóng miền Nam Việt nam và thành phố Sài Gòn. Trả lời câu hỏi về cái tên „Chị Ba” bà nói: „Tên Chị Ba là do các chiến sĩ giải phóng quân miền nam Việt nam đặt cho tôi, thể hiện tình cảm thân thương của họ với tôi. Chị Ba còn có nghĩa là Chị Ba Lan. Phóng viên hỏi, trong số hàng chục cuốn sách bà viết về Việt Nam cuốn sách nào bà tâm đắc nhất, bà trả lời: „Đó là cuốn Việt nam trong trái tim tôi”. Bà Monika Warnenska mãi mãi là người bạn thủy chung thân thiết của nhân dân Việt Nam.
Tôi đã dịch một số tác phẩm của bà sang tiếng Việt. Một số đoạn trích của các cuốn sách Mặt trận trong rừng, Múa lửa và Con gái Ngài thượng quan viết về chuyến đi thăm vùng giải phóng và hai chuyến đến Sài Gòn của bà (trước và sau giải phóng), do tôi dịch, đã được nhận tặng thưởng của báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam. Bản dịch tác phẩm Cầu trên sông Bến Hải do tôi dịch cũng đã được tạp chí Văn nghệ Quân đội tặng thưởng (năm 2008).
Nhà văn, nhà báo Wojciech Zukrowski,
nguyên Chủ tịch Hội Nhà văn Ba Lan.
Sinh tại thành phố Krakow, Ba Lan, tốt nghiệp khoa Văn Đại học Jagielonski ở thành phố này. Năm 1039 ông tham gia cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Thời chiến tranh ông từng làm phu tại công trường khai thác đá của Công ty Solvay, cùng Karol Wojtyla, sau này là đức Giáo hoàng Gioan Phaolo. Hai người vốn là bạn của nhau từ thời trai trẻ. Ông đã gia nhập Quân đội Ba Lan, từng là phóng viên mặt trận, nhà ngoại giao. Là một nhà văn lớn của Ba Lan sau chiến tranh, nhiều năm liền ông đảm đương cương vị Chủ tịch Hội Nhà văn Ba Lan. Gia tài văn học của ông thật là đồ sộ với những tác phẩm nổi tiếng được đông đảo bạn đọc mến mộ. Truyện ngắn Chú ngựa Lotna trong tập truyện Từ đất nước lặng im đã được đạo diễn điện ảnh nổi tiếng Andrzej Wajda dựng thành một bộ phim hay. Bộ tiểu thuyết hai tập dầy trên 800 trang Những tấm bia đá, viết về mối tình của nhà ngoại giao Hungrari với một nữ bác sĩ người Australia làm việc tại Ấn Độ đã đưa ông lên địa vị một cây bút tiểu thuyết lớn. Bộ phim Ba Lan nổi tiếng Hướng Berlin là bộ phim dựng theo kịch bản của ông. Ông đã đến nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Lào... viết nhiều tác phẩm về những nước này. Cuốn sách Đất nước triệu voi viết về Lào là một trong những tác phẩm hay về đề tài nước ngoài của ông.
Cuối năm 1953 đầu năm 1954 khi nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Wojciech Zukrowski đã có mặt tại Chiến khu Việt Bắc và nhiều vùng rừng núi khác. Từ xứ lạnh châu Âu sang rừng nhiệt đới ông chẳng sợ gian nan, coi khinh muỗi vắt. Ông cũng trèo đèo, cũng lội suối, cũng luồn rừng, cũng cơm vắt như bất kì chiến sĩ Việt Nam nào. Đổi lại ông được tận mắt chứng kiến nhân dân và quân đội Việt Nam đã tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh như thế nào. Nào là từng đoàn dân công xe đạp thồ chở lương thực, đạn dược ra tiền tuyến. Nào là bộ đội Việt nam kéo pháo chuẩn bị đánh trận Điện Biên Phủ... Các cuốn sách Nhà không vách, Đốm lửa trong rừng, Bạn của tôi – chú voi chính là những thành quả văn học ông đã gặt hái được sau những tháng ngày đầy gian khổ trong rừng sâu ở Việt nam. Trả lời câu hỏi „Tại sao ông lại lặn lội tới vùng rừng núi Điện Biên Phủ?” trong bài phỏng vấn năm 1998 dành cho báo Diễn đàn, ông nói: „Tôi muốn được tận mắt chứng kiến sự thật ở Việt Nam là thế nào. Tôi đã tới được nơi đó và thế là tôi mãn nguyện. Tôi chỉ có một mong muốn - từ đó ngẩng cao đầu trở về và đưa ra những bằng chứng. Đã có lúc chỉ thiếu chút nữa là có thêm một nấm mồ của tôi trong rừng cây bách thắng”.
Dù cho vật đổi sao dời, Việt Nam luôn luôn trong trái tim ông. Dẫu tuổi già sức yếu, ông không vắng mặt trong bất kỳ cuộc gặp gỡ nào về Việt Nam mà ông được mời. Hễ có dịp là ông say sưa kể về đất nước con người Việt Nam „một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu” mà ông từng chứng kiến.
Wojciech Zukrowski qua đời ngày 26 tháng 8 năm 2000 tại Warszawa. Với tư cách là Bí thư Thứ nhất của Đại sứ quán Việt nam tại Ba Lan, tôi đã mang vòng hoa của Đại sứ quán đến dự lễ tang, viếng ông, người bạn thủy chung của nhân dân Việt Nam. Hôm đó lễ tang ông diễn ra dưới trời mưa tầm tã, nhưng khi loạt súng của đội danh dự vang lên tiễn biệt ông thì cơn mưa rào bất thình lình tạnh hẳn.
Andrzej Wawrzyniak, Giám đốc Viện
bảo tàng châu Á và Thái Bình Dương Warszawa.
Ông đã sang Việt Nam công tác bốn năm liền trong Ủy ban quốc tế Giám sát và Kiểm soát tại Việt Nam, được thành lập theo quy định của Hiệp nghị Giơnevơ năm 1954. Ông yêu quý đất nước và con người Việt Nam từ những năm tháng đó, đặc biệt ông vô cùng mến mộ nền nghệ thuật Việt Nam cả truyền thống lẫn hiện đại. Sau này ông đã nhiều lần sang thăm Việt Nam với tư cách là Giám đốc Viện bảo tàng châu Á Thái Bình Dương Warszawa. Ông có nhiều bạn bè là các nghệ sĩ, họa sĩ Việt Nam. Nhiều họa sĩ đã được ông mời sang Ba Lan tổ chức triển lãm giới thiệu các tác phẩm của mình với công chúng Ba Lan. Rất nhiều các tác phẩm của các họa sĩ Việt nam cũng đã được trưng bày tại viện bảo tàng của ông, tổng cộng có tới một trăm bộ sưu tập. Đó là những tác phẩm tranh sơn mài, tranh vẽ trên lụa, tranh sơn dầu, tranh khắc gỗ vv... Trong số đó có nhiều tác phẩm của các họa sĩ nổi tiếng như Phan Kế An, Hoàng Tích Chỉ, Phạm Văn Đôn, Lê Trí Dũng, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Sáng...
Tại khuôn viên của Viện bảo tàng châu Á và Thái Bình Dương ở Warszawa tọa lạc ngôi Chùa Một Cột bằng một nửa kích thước của Chùa Một Cột tại Hà Nội. Đó chính là kết quả của sáng kiến đầy tâm huyết và công lao của ông. Ông Andrzej Wawrzyniak đã được tặng huân chương và huy chương cao quý của Việt Nam như: Huy chương Giải phóng hạng nhất của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam về hoạt động trong Ủy ban quốc tế (1975); Huy chương Hữu nghị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vì những đóng góp cho sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam (1976) và Huân chương Hữu nghị của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam vì những cống hiến trong việc ủng hộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam (1995).
Kiến trúc sư Kazimierz Kwiatkowski,
chuyên gia trùng tu phục chế các di tích.
Năm 1982, trong khuôn khổ hợp tác văn hóa Việt Nam – Ba Lan, kiến trúc sư Kazimierz Kwiatkowski sang công tác tại Việt Nam với tư cách là chuyên gia giúp đỡ Việt Nam bảo tồn, tu bổ các di tích tháp Chàm, đặc biệt khu di tích Tháp Chàm Mỹ Sơn và gia cố khu địa đạo Củ Chi. Vừa đặt chân lên đất Việt Nam ông bắt tay ngay vào việc nghiên cứu, khảo sát di tích để đưa ra các phương án tu bổ. Lúc bấy giờ chiến tranh vừa kết thúc chưa được bao lâu, thung lũng Mỹ Sơn ở huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam còn đầy rẫy bom mìn chưa được rà phá. Nhóm khảo sát di tích do ông dẫn đầu đã đụng phải bom mìn, cướp đi sáu sinh mạng và nhiều người bị thương. Tuy nhiên khó khăn và nguy hiểm không làm ông nản lòng. Ông dựng lều giữa chốn hoang vu phế tích tháp Chàm, khí hậu khắc nghiệt, thiếu thốn mọi bề và ăn ở ngay tại đó. Người đàn ông to lớn, nặng trên một tạ, da đỏ như tôm hấp, râu xòm, được mệnh danh là „người khổng lồ”, „người rừng Mỹ Sơn”, dân Quảng Nam – Đà Nẵng gọi ông bằng cái tên đầy thân thương – Kazik. Đầu không mũ nón, cởi trần và chân đất, ông lầm lì làm việc quần quật suốt ngày, bất kể nắng mưa. Trưa hè ông ra tắm suối gần đó, đắm mình trong thiên nhiên hoang dã. Bữa ăn của ông bình dị, người Việt ăn gì ông ăn nấy: cơm, nước mắm, ớt, thậm chí cả mắm tôm. Được cái ông không chỉ „lành người” mà còn „lành bụng”, món gì ông cũng ăn mà chẳng bị làm sao cả. Tôi đã có mấy lần đi cùng ông đến khu di tích Mỹ Sơn. Hồi đó Mỹ Sơn còn rất hoang vu. Để đến đó chứng tôi phải lội qua một con suối và đi bộ chừng năm cây số đường núi. Có đến Mỹ Sơn vào những ngày nắng gắt thì mới thấy làm việc và ăn ngủ tại cái nơi hồi đó còn „khỉ ho cò gáy” này thật lắm gian truân. Có thấy ông làm việc tận tụy, mồ hôi nhễ nhại, thì mới biết ông say sưa với khu di tích này biết nhường nào. Ông vẫn thường nói: „Tôi là người Mỹ Sơn, khi tôi chết hãy chôn tôi ở Mỹ Sơn”. Nguyên tắc và phương pháp bảo tồn, tu bổ các di tích tháp Chàm của ông là: Giữ gìn nguyên vẹn di tích gốc và thành phần gốc còn giữ được, kiên quyết không làm sai lệch và làm giả di tích, chủ yếu sử dụng biện pháp gia cố kĩ thuật để duy trì hiện trạng, chỉ phục chế từng phần nếu có cơ sở khoa học, không phục nguyên, không làm lẫn cái gốc với cái mới đưa vào để gia cường. Lúc đầu có không ít người phản đối phương pháp nói trên. Tuy nhiên, đến bây giờ thì các chuyên gia trùng tu di tích trong và ngoài nước đã thấy rõ giá trị của trường phái trùng tu khảo cổ học mà Kazik tuân thủ rất nghiêm ngặt đối với các di tích đền và tháp cổ ở Mỹ Sơn.
Năm 1981 Kazik đến thăm thị xã Hội An. Với con mắt của một chuyên gia tài ba và một kiến trúc sư từng trải, giầu kinh nghiệm trong lĩnh vực trùng tu phục chế các di tích và đô thị cổ, ông đã phát hiện và nhận ra những giá trị của thị xã đang an phận ngủ say này. Theo ông, đây là „một kho vàng trong kiến trúc nghệ thuật cổ gần như còn nguyên vẹn”. Ông xin gặp lãnh đạo thị xã, đề xuất ý kiến, theo đó phải gấp rút bảo vệ và trùng tu đô thị cổ này. Đồng thời ông viết báo cáo gửi UNESCO và các tổ chức quốc tế bảo tồn các đô thị cổ, đăng nhiều bài báo chuyên ngành giới thiệu giá trị và vẻ đẹp của Hội An với thế giới. Suốt nhiều năm sau đó, Kazik cùng các đồng nghiệp Việt Nam đã say sưa nghiên cứu, khảo sát và đạc họa khu nhà cổ. Phát hiện cũng như những hoạt động quảng bá cho đô thị cổ Hội An của Kazik có một ý nghĩa cực kỳ to lớn, tạo tiền đề cho Hội An được UNESCO chính thức công nhận là di sản thế giới.
Kazik đã làm việc tại Việt Nam tổng cộng trên 17 năm. Người Ba Lan được gọi là hiền nhân này tính tình thật dễ thương, khiêm nhường, nói ít làm nhiều và thủy chung hết mực với công việc, với bạn bè. Chiều ngày 17 tháng 3 năm 1997 ông đã bất ngờ gục xuống bàn vẽ ở Thế Miếu, Tả Vu, khi đang tham gia trùng tu Đại nội Huế. Ông qua đời ở tuổi 53. Thi hài của Kazik được đưa về thành phố Lublin quê hương ông và mai táng tại nghĩa trang tọa lạc trên một ngọn đồi của thành phố này. Mộ ông nằm bên gốc một cây đại thụ sừng sững như dáng ông và rêu phong như nhà phố cổ. Đại diện cho Đại sứ quán Việt Nam tại Ba Lan, tôi đã tham dự lễ tang ông, kính cẩn đặt vòng hoa lên mộ ông, vĩnh biệt người bạn chung tình của nhân dân Việt nam và chia buồn cùng gia quyến. Hàng năm, vào dịp Ngày lễ Vong nhân – 1 tháng 11, đại diện Đại sứ quán nước ta và đại diện cộng đồng người Việt tại Ba Lan vẫn đến viếng mộ ông, thăm gia đình ông ở thành phố Lublin. Kiến trúc sư Kazimierz Kwiatkowski đã được nhà nước ta trao tặng Huân chương Lao động Hạng II.
Tượng kiến trúc sư Kazimierz Kwiatkowski (Kazik) đã được dựng tại 138 Trần Phú, trung tâm phố cổ Hội An. Bức tượng bằng đá xanh Thanh Hóa (cao 2,4m, ngang 1,85m) tạc ảnh bán thân vị kiến trúc sư tài hoa có nhiều đóng góp đặc biệt cho văn hóa Quảng Nam, đặc biệt là khu đền tháp Mỹ Sơn và đô thị cổ Hội An. Ngắm hình ảnh ông tôi mường tượng trong đầu, đây cũng là tượng đài của tình hữu nghị và sự hợp tác có hiệu quả giữa Việt Nam và Ba Lan.
Lê Bá Thự
Bình luận