2020-12-29 20:50:45

70 năm quan hệ ngoại giao giữa Ba Lan và Việt Nam cùng với các nhiệm kỳ Đại sứ Việt Nam tại Ba Lan (04.02.1950 - 04.02.2020)

Ba Lan là một trong những quốc gia đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào ngày 4 tháng 2 năm 1950.
Trong vòng 70 năm qua, đã có rất nhiều sự hợp tác, đoàn kết, chia sẻ song phương của 2 nước được thực hiện. Hàng vạn sinh viên, NCS, TTS được đào tạo ở Ba Lan, nhiều sinh viên, TTS Ba Lan cũng được học tập tại Việt Nam, nhiều hiệp định trao đổi văn hoá, khoa học- kỹ thuật, quân sự giữa 2 nước được tiến hành tạo nền móng cho tình hữu nghị Việt Nam - Ba Lan. Những gì đang hiện hữu trên đất nước Việt Nam ghi dấu ấn của tình hữu nghị VN- BL bền chặt như: Trường Trung học Phổ thông Ba Lan - Việt Nam tại Hà Nội, Bệnh viện ở thành phố Vinh - Nghệ An, nhà máy đóng tàu Giếng Đáy - Quảng Ninh, các di tích cổ tại Huế, Hội An và Mỹ Sơn được các chuyên gia Ba Lan trùng tu, nền văn học Ba Lan ngày càng được yêu mến rộng rãi ở Việt Nam, cộng đồng Việt Nam ở Ba Lan đã có chỗ đứng vững chắc, có những đóng góp xứng đáng vào phát triển kinh tế, giao lưu văn hoá trên đất nước Ba Lan.Trao đổi thương mại trong nhiều lĩnh vực vẫn được duy trì và phát triển liên tục giữa 2 nước. Tất cả những điều này đã góp phần đưa hai dân tộc Ba Lan và Việt Nam gần gũi nhau hơn bất kể khoảng cách địa lý ngăn cách hai quốc gia. Nhân dịp kỷ niệm 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, xin giới thiệu tóm tắt quá trình công tác của các vị đại sứ Việt Nam tại Cộng hoà Ba Lan.

Ba Lan đã tham gia Uỷ ban Giám sát Quốc tế Hiệp định Geneve về Việt Nam năm 1954. Ba Lan cũng tham gia Uỷ ban Quốc tế Kiểm sát và Giám sát hiệp định Pari 1973 cho tới khi Việt Nam hoàn toàn thống nhất năm 1975.
Năm 1950 Liên Xô, Trung Quốc, Ba Lan… đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Có thể coi đây là những nước đầu tiên công nhận nền độc lập của Việt Nam.

70 năm qua Việt Nam và Ba Lan đã trao đổi nhiều vị đại sứ, sau đây là những vị đại sứ Việt Nam tại Ba Lan qua các thời kỳ:

1. Vị đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Ba Lan là ông Hoàng Văn Tiến (1957 – 1959).  Hàm đại sứ lúc đó còn quá khiêm nhường ở Việt Nam sau kháng chiến chống Pháp. Đến 23.05.1957 ông được phong hàm đại sứ Đặc Mệnh Toàn quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tại Cộng Hoà Nhân Dân Ba Lan. Ông Hoàng Văn Tiến xuất thân từ gia đình nho giáo, sau trở thành Thứ trưởng ngoại giao của Việt Nam DCCH. Giai đoạn này Việt Nam bắt đầu gửi lưu học sinh đi đào tạo ở các nước Đông Âu.

2. Ngày 12.11.1959 ông Hoàng Lương – cựu Chủ tịch Uỷ Ban Kháng chiến tỉnh Hoà Bình sang Ba Lan với cương vị đại sứ Đặc Mệnh Toàn Quyền VN tại Ba Lan. Hết nhiệm kỳ đại sứ ông trở thành Thứ trưởng ngoại giao VN, Phó Bí thư thường trực Ban Cán sự Đảng ngoài nước.

3. Đaị sứ Ngô Văn Đệ (1960 – 1962) - phó Ban Thống Nhất TW sang Ba Lan với cương vị đại sứ ĐMTQ ngày 21.03.1960. Ông người Bình Định, vùng đất võ thuật “liêm khiết”, “kỷ luật”. Ở giai đoạn khởi thuỷ, gặp đại sứ khó như gặp lãnh tụ.

4.Ông Nguyễn Đăng Khoa - đại biện lâm thời Sứ Quán Việt Nam tại Ba Lan trong thời gian chờ đại sứ mới (06.1962-08.1962)

5. Đại sứ Trần Chí Hiền (1962 – 1965). Ông từng là một sĩ quan quân đội thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Đó là vị đại sứ giản dị, nhưng giữ nguyên tắc như kỷ luật quân sự. Đây là thời kỳ chống chủ nghĩa xét lại: không ca ngợi tư bản, ngay với đồng chí nước bạn nếu “hôn” nhưng “không hít” (Chỉ thị của Tố Hữu). Nội quy LHS là nội quy “sắt”: Nam nữ LHS Việt Nam không được tự do yêu nhau trong thời gian học tập, không xem phim tư bản, học kém, phạm kỷ luật phải về nước...

6. Đại sứ Trần Phát Quang (1965 – 1970). Ông người Bến Tre. Vợ chồng đại sứ là những người rất nhân từ, thương cán bộ, LHS xa quê hương. Đây là thời kỳ kháng chiến chống Mỹ ở giai đoạn khó khăn nhất, phải tranh thủ sự ủng hộ, viện trợ của khối XHCN cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, tích cực đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật với niềm tin vững chắc sẽ xây dưng lại đất nước sau chiến tranh “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” (lời Bác Hồ). Ba Lan ủng hộ Việt Nam (ít công khai trên phương tiện truyền thông) mà hiệu quả thiết thực. Ông là đại sứ Việt Nam duy nhất đến lúc đó ở Ba Lan được tặng thưởng Huy Chương Hữu nghị. Ông về hưu với cương vị Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc Hội.

7. Đại sứ Lê Trang (1970 – 1976). Là trí thức đi theo kháng chiến trở thành nhà ngoại giao chuyên nghiệp. Khi về hưu có cấp bậc tương đương Thứ trưởng. Ông là anh em đồng hao với những người nổi tiếng như Hoàng Minh Chính, Vũ Quang... Rất nhiều người Việt ở Ba Lan biết về ông vì đó là vị đại sứ khá thông hiểu công việc, ông còn say mê văn thơ. Năm 1970 mở đầu các cuộc biểu tình của công nhân Ba Lan đòi cải thiện dân sinh, dân chủ - khởi thuỷ của phong trào "Công Đoàn đoàn kết" ở Ba Lan. Kinh tế Ba Lan những năm đó khá thịnh vượng do vay tiền của Tây  Âu để phát triển đất nước. Những công trình về đường xá, ga tầu (Ga tầu hoả ở Trung tâm Warszawa), nhà chung cư 10 tầng được xây dựng khắp Ba Lan - gọi chung là công trình Gierek “Gierek - TBT Đảng CN TN BL". Ông là đại sứ cuối cùng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại nước Cộng hoà Nhân dân Ba Lan. Hiện ông đang ở cái tuổi "bách niên" mà vẫn còn sáng suốt, thích ngồi viết hồi ký bằng cả tiếng Pháp và tiếng Việt.

8. Ông Lê Đình Giai - Đại biện lâm thời Việt Nam DCCH tại CHND Ba Lan (1972- 1974).

9. Đại sứ Nguyễn Ngọc Uyển - đại sứ nước VN DCCH tại Ba Lan (1974– 1976). Ông là Đại sứ ĐMTQ đầu tiên của Cộng hoà XHCN Việt Nam tại Ba Lan (1976-1981). Sau khi Việt nam thống nhất số lượng LHS sang Ba Lan học tập ngày càng ít so với những năm trước đó. Ba Lan bước vào thời kỳ khó khăn về kinh tế. Về nước ông công tác tại Ban Cán sự Đảng Ngoài nước với chức vụ Phó ban. 

10. Đại sứ Trương Quang Ngô (1981- 1984). Vị đại sứ người Huế có tầm hiểu biết sâu, rộng về nhiều lĩnh vực: lịch sử, địa lý, văn thơ, pháp luật. Ông là một trong những nhà lý luận, cây viết ngoại giao sắc sảo trên diễn đàn quốc tế một thời. Đây là thời kỳ khó khăn của Ba Lan cả về chính trị, kinh tế, xã hội. Thực phẩm, hàng hoá tiêu dùng ngày càng khan hiếm. Người Việt Nam ở Ba Lan tìm cơ hội thoát nghèo nhờ kinh doanh, buôn bán xuyên quốc gia. Ba Lan trở thành xứ sở mong muốn có mặt của nhiều người.

11. Đại sứ Nguyễn Trọng Thuật  (1984 – 1988). Ông người Thanh Hoá có tác phong của một nhà giáo “hiền triết”, từng trải qua công tác ngoại giao ở các cương vị khác nhau. Tư tưởng đổi mới từ thời Gorbaczow (Tổng bí thư ĐCS Liên Xô) đã ảnh hưởng đến toàn khối XHCN. Việt Nam thực hiện đổi mới – cuộc sống như có tia sáng cuối đường hầm. Trụ sở Cơ quan Ngoại giao Việt Nam suốt bao nhiêu năm từ Chocimska 2, Warszawa nhỏ bé, chật hẹp được chuyển về phố Kawalera 4 ngay sát công viên Łazienka rộng rãi và thoáng mát như là sự đổi mới bộ mặt quốc gia Việt Nam ở nước ngoài.

12. Đại sứ Nông Thế Cận (1988 -1991). Vị đại sứ đầu tiên của Việt Nam tại Cộng Hoà Ba Lan có hàm Thứ trưởng. Ông từng học phổ thông (lớp cuối) rồi học đại, làm luận án Tiến sĩ ở Ba Lan. Đây là giai đoạn Ba Lan áp dụng chế độ tem phiếu cho các loại thực phẩm khan hiếm, thiết yếu như ở Việt Nam những năm chống Mỹ. Những biến đổi chính trị, xã hội sâu sắc ở Ba Lan có tính bước ngoặt sau hội nghị “Bàn tròn" (Okrągły Stół) năm 1989 là dấu ấn lịch sử của Ba Lan. Liên Xô qua biến động chính trị đã tan rã. Bức tường Berlin sụp đổ. Hàng loạt các nước XHCN Đông Âu thay đổi chế độ chính trị. Ba Lan thay đổi tên gọi sau bầu cử tự do năm 1989 từ CHND Ba Lan sang CH Ba Lan. Ba Lan xoá bỏ chế độ độc đảng (trong hiến pháp). Người Việt Nam ở châu Âu, trải qua quá trình thay “áo mới”.  Những chuyến tầu hoả liên vận chở máy tinh “second hand”, quần, áo bò, đồng hồ điện tử, áo phông Thái, Thổ…tấp nập sang Nga đổi lấy vàng và đô la. Đại sứ Nông Thế Cận con người hiền từ, luôn trăn trở với thời cuộc và công việc nhưng vẫn phải chấp nhận thực tế đời sống mưu sinh. Sau những gì đã trải qua ở các cương vị cao trong lãnh đạo nhà nước, ông trở lại cuộc sống đời thường với bệnh tật tuổi già, sức yếu và lo toan cuộc sống gia đình.

13. Đại sứ Đào Thị Tám (1991- 1995). Vị đại sứ nữ đầu tiên tại Ba Lan. Bà từng là LHS Việt Nam những năm 1967 – 1972, sau trở thành nhà ngoại giao chuyên nghiệp. Bà còn có nhiệm kỳ đại sứ ở Hungari (1999 - 2002). Bà là điển hình của phong cách quản lý kiểu Việt Nam “chỉ làm những gì thuộc trách nhiệm, trong nhiệm vụ”, giữ nguyên tắc của người phụ nữ thép gọi là “ Thatcher” Việt Nam (Thatcher - cựu Thủ tướng Anh). Hết nhiệm kỳ về Việt Nam, chắc bà không khỏi trăn trở, nuối tiếc những gì đáng ra bà có thể làm tốt hơn. Có lẽ quan hệ ngoại giao BL- VN lúc ấy rơi vào thời kỳ thăng trầm nhất với nhiều thử thách. Chính phủ công đoàn Đoàn Kết (Solidarność) lên nắm quyền không ưa gì khối cộng sản. Toà Đại sứ ở sát công viên Łazienka khang trang được trả lại cho Ba Lan và thuê một toà nhà tư nhân trên phố Kazimierzowska làm trụ sở, nhờ vậy Việt Nam lấy lại được 3 toà nhà ở vị trí đắc địa giữa Hà nội, mà sứ quán Ba Lan từng khai thác.

14. Đại sứ Vũ Dương Huân (1995- 1998). Bảo vệ luận án Tiến sĩ ở Bungari, là PGS, TS giảng dạy tại Học Viện Ngoại Giao Việt Nam. Ông có nhiệm kỳ đại sứ đầu tiên ở Ba Lan, tiếp theo là nhiệm kỳ đại sứ tại Ukraina (2002- 2005). Sau đó ông có thêm nhiệm kỳ làm Tổng lãnh sự Việt Nam tại Viễn Đông, Nga. Một vị đại sứ nói ít, dễ gần, với công việc thì thiết thực, hiệu quả. Kinh tế Ba Lan chuyển sang kinh tế thị trường. Cộng đồng Việt Nam lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Đây là thời kỳ người Việt Nam tại Ba Lan hội nhập toàn diện vào xã hội sở tại.

15. Đại sứ Tạ Minh Châu (1998-2002). Ông được đào tạo văn học tại Ba Lan, yêu cả 2 nền văn thơ Việt Nam và Ba Lan. Ông xuất bản nhiều tập thơ do mình sáng tác và dịch thuật (C. Miłosz, W. Szymborska - những nhà thơ được giải Nobel). Ông bảo vệ tiến sĩ ở Ba Lan khi Ba Lan chuyển đổi thể chế chính trị, xã hội (1989- 1991). Thời kỳ này người Việt Nam chuyển kinh doanh từ chợ "Sân vận động" ( kéo dài gần 10 năm) vào các trung tâm thương mại của người Trung Quốc,Viêt Nam, Thổ Nhĩ Kỳ ở Wolka Kosowska ngoại ô Warszawa. Ông biết xác định mình là ai trên cương vị đại sứ, là nhà thơ – Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam nên (có thể) ông tâm đắc: học “lễ” để được kính, học “nhẫn” để vạn sự thành đạt. Ông là nhà ngoại giao chuyên nghiệp cao cấp. Hết nhiệm kỳ đại sứ ở Ba Lan ông được đề bạt Phó trưởng ban Đối ngoại TW. Ông còn có nhiệm kỳ Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại CH DC Lào. Ông có công lớn trong việc củng cố tình hữu nghị VN- Lào và để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp trong giới lãnh đạo của nước Lào. Mắc bệnh hiểm nghèo, cựu đại sứ đang phải chiến đấu với bệnh tật.

16. Đại sứ Đinh Xuân Lưu (2002- 2006). Ông từng công tác ở Cục Ngoại giao, Bộ Ngoại giao, từng là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Li Băng trước khi nhận nhiệm vụ Đại sứ tại Ba Lan. Là con người thẳng thắn, nên mọi người sẵn sàng chia sẻ với ông nhiều câu chuyện riêng tư, đời thường. Nhiệm kỳ đại sứ tại Ba Lan để lại trong ông nhiều kỷ niệm khó quên như câu chuyện “chó mèo” đầy nhức nhối làm giảm uy tín của  người Việt Nam. Ông có công trong việc tìm, tái kiến thiết toà đại sứ Việt Nam đầu tiên sau bao năm trăn trở. Toà đại sứ mới ở khu đất "địa linh" Wilamów, Warszawa, phố Resorowa 36. Ông thích thơ ca, kể cả sáng tác nên rất yêu nền văn thơ Ba Lan. Ông cũng gặp vấn đề về sức khoẻ ở tuổi già.

17. Đại sứ Nguyễn Văn Xương (2006-2010). Ông tốt nghiệp ĐH ngành văn học tại Rumani – một quốc gia cộng sản độc trị. Tuy lớn lên từ xứ Nghệ triệt để cách mạng, nhưng ông là người khá nhậy cảm với mọi biến đổi của thời cuộc. Ông biết nói gì, làm gì hợp với đòi hỏi của cuộc sống, biết động viên mọi người, phát huy thế mạnh mỗi cá nhân, tạo điều kiện cho họ tham gia vào công việc chung, giảm xung đột. Không phải bàn cãi, ông là nhà ngoại giao chuyên nghiệp, có quá trình công tác lâu năm trong ngành ngoại giao. Ông nhận nhiệm kỳ đại sứ Hàn Quốc những năm giao thời của hai thế kỷ (năm 2000).Với trình độ lý luận ngoại giao, chính trị, văn học, ngoại ngữ, bằng giọng nói ấm áp truyền cảm ông lôi cuốn người nghe, tạo nghệ thuật trong giao tiếp.

Ông là vị đại sứ đặc biệt quan tâm đến công tác lãnh sự. Thực ra công tác lãnh sự luôn là nhức nhối của nhiều Sứ Quán và Cộng đồng người Việt ở nước ngoài, nhất là từ khi có nhiều người Việt Nam sinh sống, học tập, kinh doanh.

18. Đại sứ Nguyễn Hoằng (2010- 2013) – Người kế tục xuất sắc sự nghiệp của lớp đàn anh đi trước. Ông trưởng thành qua tất cả các cấp bậc của ngành ngoại giao. Đại sứ Nguyễn Hoằng tốt nghiệp kinh tế tại Ba Lan, ông lại gắn bó với Ba Lan qua 3 nhiệm kỳ công tác tại ĐSQ VN tại Ba Lan, nên có nhiều bạn bè, đồng nghiệp, quan hệ rộng. Đại sứ Hoằng cùng phu nhân Nguyễn Châu Anh - một cặp nhảy khiêu vũ đáng nể, rất lôi cuốn. Ông còn có nhiệm kỳ đại sứ tại Quatar, nơi đã giúp ông chữ bệnh và  phục hồi sức khoẻ. Thành công đáng ghi nhận đầu tiên nhiệm kỳ đại sứ của ông là góp phần tổ chức chuyến thăm VN của Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk (từng là chủ tịch Uỷ Ban Châu  Âu 2013- 2019). Cộng đồng Việt Nam tại Ba Lan có nhiều kỷ niệm với ông qua các thời kỳ, nhất là lĩnh vực lãnh sự.  Ông đặc biệt có công trong ký kết với Ba Lan nhiều hiệp định về tư pháp, văn hoá, hợp tác kinh tế, khoa học – kỹ thuât. Ông cũng gặt hái được nhiều thành công trong những năm công tác ở Ba Lan. Ông cũng là người chứng kiến đầy đủ nhất sự phát triển, trưởng thành, sự đóng góp của công đồng Việt Nam tại Ba Lan trong đầu tư, kinh doanh, trong công tác từ thiện, nhân đạo về Việt Nam.

19. Đại sứ Phạm Kiến Thiết (2013 -1016). Xuất thân từ gia đình có truyền thống làm Ngoại giao, có bố là ngài Nguyễn Cơ Thạch nguyên Uỷ viên BCT, Phó Chủ tịch Hội Đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao Cộng hoà XHCN Việt Nam (1987 -1991), có em trai là ngài Phạm Bình Minh –  Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Cộng hoà XHCN Việt Nam (2011 – đến nay). ông Phạm Kiến Thiết từng học đại học ở Ukaina, ngành kỹ thuật hàng không (thuộc Liên Xô trước đây). Từng phục vụ trong Quân đội NDVN, Bộ Khoa học và Công nghệ, Vụ Quan hệ Quốc tế và Khoa học Công Nghệ với Việt Kiều thuộc Uỷ ban Nhà nước về Người Việt Nam ở nước ngoài, rồi Giám đốc Trung tâm Thông tin Bộ Ngoại giao.
Ông là Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hoà XHCN Việt Nam ở Ba Lan vào thời kỳ xã hội Ba Lan có nhiều biến động về chính trị. Đảng Luật pháp và Công lý lên cầm quyền theo chủ nghĩa dân tộc “cực đoan” có nhiều mâu thuẫn với đường lối chung của Cộng đồng chung Châu  Âu. Liên kết Ba Lan – Hung – Slovakia - là liên kết đối lập gây nhiều tranh cãi trong định hướng chung của khối EU. Kinh tế Ba Lan những năm gần đây khá ổn định dù không ít khó khăn do khách quan (cấm vận Nga, nội chiến tại Ukraina, Briexit...)
Đại sứ Phạm Kiến Thiết đã chứng kiến Cộng đồng VN tại Warszawa biểu tình (lần đầu tiên được phép của thành phố) trước Đại sứ TQ tại BL phản đối TQ đưa giàn khoan Hải Dương 981 hạ đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (02.05.2014 – 16.7. 2014) - một vấn đề nhạy cảm.
Đại sứ Phạm Kiến Thiêt là người gần gũi bà con trong cộng đồng, làm việc có trách nhiệm và rất cởi mở để lại những tình cảm tốt trong cộng đồng. Ngài Đại sứ không thích “đao to búa lớn”, có những đóng góp thiết thực cho hoạt động chung. Lần đầu tiên Đại sứ quán Việt Nam tại Ba Lan tổ chức cuộc gặp mặt để bà con người Việt trao kiến nghị liên quan đến công tác lãnh sự của Đại sứ quán Việt Nam tại Ba Lan. Được đánh giá: “Buổi làm việc thiện chí". Đã có thoả thuận, có thay đổi… Không biết công việc có bị chìm theo thời gian? Hy vọng nhiệm kỳ đại sứ Phạm Kiến Thiết là dấu mốc đổi mới công tác lãnh sự của Đại sứ quán Việt Nam ở Ba Lan.

20. Đại sứ Vũ Đăng Dũng nhiệm kỳ (2017-2020).
Ông xuất thân từ một gia đình trí thức, sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Ông được đào tạo bài bản tốt nghiệp tại Học viện Ngoại giao Việt Nam, thực tập tại Đại học Harvard về quan hệ Quốc tế, Hoa Kỳ (1999-2000) và trở thành nhà ngoại giao chuyên nghiệp, ông trải qua nhiều cương vị công tác gần 40 năm như Tham tán Công sứ - Phó Đại sứ tại Singapore và Hoa Kỳ, có nhiệm kỳ hơn 6 năm làm Đại sứ - Trưởng Phái đoàn Đại diện Thường trực đầu tiên của Việt Nam tại Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ở Indonesia và được Chủ tịch nước phong hàm Đại sứ bậc I của Nhà nước Việt Nam.
So với các lớp đàn anh đi trước, ông cũng là số ít các đại sứ khá thông thạo tiếng Anh “phát biểu không cần văn bản” tạo sự hấp dẫn. Trong nhiệm kỳ công tác tại Ba Lan, ông đã để lại nhiều ấn tượng và kỷ niệm đáng nhớ, góp phần vào việc tăng cường củng có quan hệ bạn bè và hợp tác nhiều mặt với Ba Lan, làm cho lãnh đạo và người dân Ba Lan hiểu biết hơn đất nước Việt Nam ngày càng đổi mới. Với Cộng đồng người Việt ông luôn tâm huyết, cổ vũ và tham dự nhiều hoạt động của Cộng đồng, góp sức xây dựng các tổ chức Hội đoàn phát triển vững mạnh. Ông còn là người có công trong việc mua thêm một ngôi nhà (mới) làm nhà riêng cho Đại sứ đáp ứng yêu cầu đối ngoại.

21. Đại sứ Nguyễn Hùng (nhiệm kỳ 2020- 2023).
Sau khi tốt nghiệp đại học tại Ukraina về ngành Quan hệ Quốc tế, đại sứ Nguyễn Hùng về công tác tại Bộ Ngoại giao. Ông trưởng thành qua tất cả các cấp bậc của ngành ngoại giao từ Tuỳ viên, Bí thư thứ hai và Công sứ - Phó Đại sứ quán Việt Nam tại Liên bang Nga. Đại sứ Nguyễn Hùng từng là Vụ phó Vụ châu Âu. Dù mới bắt đầu nhiệm kỳ công tác từ cuối tháng 7/2020 trong bối cảnh Ba Lan và toàn châu  Âu chịu tác động nặng nề bởi dịch Covid-19, ĐS Nguyễn Hùng đã tích cực cho triển khai công tác bảo hộ và hỗ trợ công dân trong thời kỳ dịch bệnh (đặc biệt kịp thời tổ chức cho bà con có hoàn cảnh khó khăn được về nước) và linh hoạt vận dụng các hình thức ngoại giao mới như vận động phía bạn thực hiện tham vấn chính trị cấp Thứ trưởng theo hình thức trực tuyến nhằm duy trì và thúc đẩy đà quan hệ Việt Nam – Ba Lan. Cộng đồng Việt Nam thời gian này gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh, sinh hoạt do kiểm tra thuế: hàng hoá bị tịch thu, bị phạt..., giá cả sinh hoạt tăng, mọi hoạt động bị đình trệ... Ba Lan một trong những nước bị lây nhiễm Covid-19 cao ở châu Âu, có giai đoạn thường ngày hơn chục nghìn người bị nhiễm, vài trăm người chết, bệnh viện thiếu người phục vụ, thiếu trang thiết bị y tế, có bênh viện tại Warszawa 80% nhân viên y tế  bị nhiễm Covid-19. Công đồng Việt Nam tại Ba Lan đã có nhiều sáng kiến và việc làm thiết thực ủng hộ chống dịch: cấp xuất ăn cho nhân viên bệnh viện, gửi tặng trang thiết bị y tế từ Ba Lan về Việt Nam và ngược lại, thành lập Ban hỗ trợ cộng đồng VN tại Ba Lan phòng chống dịch Covid-19 giúp bà con cách chữa trị, liên hệ với bệnh viện trong trường hợp khẩn cấp... để lại những thiện cảm tốt đối với người Ba Lan và đặc biệt đối với ngành Y tế Ba Lan.
Kỷ niệm 70 năm quan hệ ngoại giao, hữu nghị Việt Nam - Ba Lan là dấu ấn tốt đẹp cho nhiệm kỳ của đại sứ Nguyễn Hùng.
Với bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực ngoại giao và hiểu biết sâu về khu vực Đông Âu, hy vọng Đại sứ Nguyễn Hùng sẽ thành công trong việc góp phần đẩy mạnh quan hệ truyền thống Việt Nam và Ba Lan có những bước phát triển mới, hiệu quả đáp ứng lợi ích của cả hai bên, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cộng đồng người Việt Nam tại Ba Lan sinh sống, hội nhập và giúp cộng đồng làm tốt cầu nối trong quan hệ hữu nghị nhân dân giữa hai dân tộc Việt Nam - Ba Lan.

Vác-sa-va, 12/2020
Nguyễn Xuân Nhung

Một số hình ảnh quan hệ ngoại giao giữa BL và VN


*
*
*

*

*

*

*
*
*
Tổng thống BL Andrzej Duda sang thăm VN


Tổng thống BL Andrzej Duda và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
***
Một số hình ảnh Đại sứ Việt Nam tại Ba Lan

ĐS Tạ Minh Châu:


*
ĐS TMC phát biểu trong chương trình "Tuổi thơ Việt Nam" tổ chức trong khuôn viên ĐSQVN tại BL (1/6/1999)


*


ĐS Đinh Xuân Lưu:

*


ĐS Nguyễn Văn Xương:

*

*

ĐS Nguyễn Văn Xương phát biểu tại Lễ kỷ niệm 55  năm ngày giải phóng Thủ đô được tổ chức ở Vac-sa-va

Đại sứ Nguyễn Hoằng:


Đại sứ Nguyễn Hoằng  trong buổi trình quốc thư lên tổng thống Ba Lan Bronisław Komarowski (27. 08. 2010)

Đại sứ Nguyễn Hoằng tặng quà cho Phó Chủ tịch Thành phố Lódz (BL)- Wieslawa Zewald



Đại sứ Phạm Kiến Thiết:

ĐS Phạm Kiến Thiết đã trình thư ủy nhiệm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang lên Tổng thống Ba Lan Bronislaw Komorowski

Đại sứ Phạm Kiến Thiết và phu nhân chụp ảnh kỷ niệm với Hội phụ nữ Việt Nam tại Ba Lan trong buổi chia tay hết nhiệm kỳ.

Đại sứ Vũ Đăng Dũng:

Tổng thống Cộng hòa Ba Lan đã tổ chức Lễ trao Huân chương Công trạng cho Đại sứ  Vũ Đăng Dũng trước khi kết thúc nhiệm kỳ công tác về nước

Đại sứ Vũ Đăng Dũng và Phu nhân Võ Thị Hiền trong buổi gặp gỡ đại diện Cộng đồng VN tại BL

Đại sứ Nguyễn Hùng:

ĐS Nguyễn Hùng trong lễ trình Quốc thư lên TT Ba Lan A. Duda
*

*

ĐS Nguyễn Hùng phát biểu trong buổi lễ KN lần thứ 75 QK NCHXHCNVN 2-9 tổ chức tại ĐSQVN tại BL.
(Nguồn ảnh: TTXVN, báo Quê Việt, một số báo mạng khác và mạng FB)

Sửa lần cuối 2021-01-01 05:58:23
  • Xuân Nhung Xuân Nhung Tình hữu nghị Việt nam-Ba Lan là tài sản quý của 2 nước, 2 dân tộc. Là công sức gây dựng, đóng góp của bao thế hệ trong bao nhiêu năm với thăng trầm của lịch sử. Ba Lan trở thành tổ quốc thứ 2 của nhiều người Việt Nam. Chúc cho tình hữu nghị, sự hợp tác, đoàn kết ngày càng phát triển vì lợi ích của 2 nước, 2 dân tộc. 2020-12-30 05:35:00

Bình luận

Bình luận qua Facebook