2018-03-02 08:15:18

Mười ba nữ khoa học làm thay đổi thế giới

    1. May-Britt Moser – nhờ bà ta biết là não lập ra bản đồ các thứ xung quanh ta.

Bà là chuyên gia người Na Uy về ngành thần kinh học. Khi học đại học ngành tâm lý ở Na Uy bà đã bắt đầu nghiên cứu về bộ não chuột trong tình huống khi chúng bị cho vào mê cung (labirynt). Bà cũng nghiên cứu cách bộ não loại bỏ các thông tin không cần thiết và chỉ giữ lại các thông tin quan trọng nhất. Năm 2014 bà được giải Nobel cùng với chồng về phát hiện ra …máy GPS của bộ não.

    2. Florence Bascom (1862-1945)– giúp chúng ta hiểu các ngọn núi hình thành ra sao. Bà là người phụ nữ đầu tiên được bằng tiến sỹ về địa chất do một trường đại học của Mỹ cấp. Bà là phó chủ tịch Hội Địa chất Mỹ với hơn 40 công trình.

    3. Marjory Stoneman Douglas – người đấu tranh bảo vệ thiên nhiên, bình đẳng và quyền phụ nữ. Bà phản đối việc phá các khu vực phía nam bang Florida, nay nó là vườn quốc gia lớn thứ ba nước Mỹ. Bà sinh năm 1890 và thọ 108 tuổi.

    4. Maria Skłodowska-Curie – người đạt hai giải Nobel

Cả cuộc đời riêng và khoa học dành cho việc nghiên cứu tính chất của các nguyên tố phóng xạ. Năm 36 tuổi bà lần đầu đoạt giải Nobel, va fgiair sau vào năm 44 tuổi. Bà phải rời Ba Lan vì muốn được học, và khi đó phụ nữ không có quyền học trên mảnh đất đang bị chia cắt của Ba Lan. Các nữ sinh mãi tới năm 1894 mới có thể xin học ĐHTH Jagielloński, và từ năm 1915, ĐHTH Vác-sa-va mới nhận nữ sinh viên.

    5. Cecilia Payne-Gaposchkin – là người giải thích cấu tạo của Mặt trời. Bà là nhà thiên văn học Anh phát hiện ra mặt trời chủ yếu gồm hydro và hê-li. Đầu tiên bà định học Sinh học, sau đó chuyển sang học Vật lý rồi sang Mỹ học ở Harvard. Luận án tiến sỹ của bà được coi là một bản công bố xuất sắc của một nhà thiên văn học, nghiên cứu về mặt trời và các ngôi sao.

    6. Rita Levi-Montalcini – tác giả của các nghiên cứu bước ngoặt về hệ thần kinh. Bà là chuyên gia Ý về thần kinh học, thọ 103 tuổi. Vì là người Do Thái, nên bà phải thôi làm việc tại trường đại học, trốn về quê trong Đại chiến thứ 2 và vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu, dựa trên phôi của gà. Bà nhận giải Nobel vào năm 1986 – ở tuổi 77 về các nghiên cứu cho phép hiểu cơ cấu tăng trưởng của tế bào và các bộ phận trong cơ thể người và động vật.

    7. Chien-shiung Wu – tìm ra quá trình làm giàu uran. Bà là nhà vật lý sinh ra ở Trung Quốc, nhưng lớn lên ở Mỹ. Trong đại chiến thế giới thứ hai, người Mỹ đã muốn bà tham gia chương trình nghiên cứu Manhattan, có mục đích thiết kế và chế tạo bom nguyên tử. Bà đã tìm ra cách làm giàu uran để chế bom nguyên tử. Mặc dù là người đầu tiên bằng thực nghiệm chứng minh lý thuyết, nhưng bà không được giải Nobel cho công việc này, giải đó lại lọt vào tay hai nhà khoa học khác.

    8. Katherine Johnson – người đưa các nhà du hành vũ trụ quay lại Quả Đất. Bà là nhà toán học người da đen mà phim „Các hoạt động thầm kín” có nói về tiểu sử. Bà là người siêu giỏi về tính quỹ đạo các chuyến bay vũ trụ, tham gia vào việc tính toán các chuyến bay lên Mặt trăng và của các tàu con thoi của Mỹ.

    9. Rosalyn Yalow (1921-2011)– lập ra kỹ thuật chẩn đoán các bệnh nguy hiểm và các khuyết tật trên cơ sở nghiên cứu hooc-môn được dùng đến ngày nay. Nhờ công trình của bà mà ta có thể phân biệt bệnh tiểu đường loại 1 và 2.

    10. Esther Lederberg – người phát hiện ra là các vi khuẩn có thể có đột biến ngẫu nhiên, tăng đề kháng khi chịu tác dụng của kháng sinh. Bà nghiên cứu về vi khuẩn và vi-rut, nghĩ ra cách cho phép dễ dàng nghiên cứu quần thể vi khuẩn. Năm 1951 bà tìm ra nhóm khuẩn lambda mà đến nay vẫn dùng như mô hình mẫu trong công nghệ sinh học và sinh học phân tử.

    11. Annie Easley – Hồi nhỏ bà muốn trở thành y tá, nhưng sau khi đọc bài báo về hai chị em sinh đôi làm việc như máy tính (trong các năm 50 người ta hay thuê các phụ nữ để làm các tính toán hết sức vất vả với độ chính xác và một sự bền bỉ) ở Trung tâm nghiên cứu không gian Hoa Kỳ (NASA) nên bà quyết định vào đó làm việc. Easley đầu tiên trở thành nhà toán học, sau làm lập trình. Bà đã tham gia viết các lệnh cho hệ thống dẫn đường cho các tên lửa.

    12. Patricia Bath – phát minh của bà giúp việc chữa một bệnh quan trọng cho mắt. Năm 1942, bà phát minh ra một thiết bị la-ser cho phép chữa bệnh đục giác mạc và đăng ký bản quyền phát minh này vào năm 1988. Bà Patricia Bath trong nhiều năm hoạt động phòng và chống mù mắt, là người đồng sáng lập ra Viện Phòng chống các bệnh gây mù, nhờ vậy các trẻ sơ sinh được nhỏ vitamin A.

    13. Francoise Barre-Sinoussi – nhờ bà chúng ta biết nguyên nhân gây ra bệnh AIDS. Bà là nhà khoa học Pháp đã giúp phát hiện vi-rut HIV và chứng minh nó gây ra bệnh AIDS vào năm 1983, sau có hai tuần lễ làm việc. Sau đó bà nghiên cứu phản ứng phòng vệ của cơ thể với HIV và AIDS với hy vọng tìm ra thuốc chữa bệnh.

    Chọn từ "Phụ nữ trong khoa học: 50 nhà tiên phong làm thay đổi thế giới".

QV (theo: http://businessinsider.com.pl/technologie/nauka/najbardziej-znane-kobiety-w-nauce/0t9h7l8)

Sửa lần cuối 2018-03-02 06:43:56

Bình luận

Bình luận qua Facebook