Henryk Sienkiewicz (1846 - 1916), giải NOBEL VĂN HỌC 1905
Người dịch: HỒ BÍNH (dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan trong tập „Nowele wybrane” của nhà xuất bản „Państwowy Instytut Wydawniczy”, Warszawa 1971)
Đứa trẻ ra đời, nhỏ thó và yếu ớt. Các bà mẹ đỡ đầu tụ tập cạnh giường sản phụ, lắc đầu quầy quậy với người mẹ, với cậu bé. Bà Kowalska Szymonowa, có vẻ thông minh nhất trong số họ, an ủi người mẹ đau yếu:
- Cho phép tôi – bà ta nói – đốt ngọn nến cho hai mẹ con, chẳng còn gì nữa, em của tôi ơi, hãy chuẩn bị sang thế giới bên kia thôi, phải đi mời đức cha đến để rửa tội thôi.
- Chà! - Mẹ đỡ đầu thứ hai nói – phải làm phép thánh ngay cho thằng bé, nó không chờ được đức cha đâu. Như vậy sẽ tốt hơn, để sau khi chết nó không biến thành con quỷ.
Bà vừa nói vừa thắp nến, rồi sau đó bà bế thằng bé lên, vẩy nước vào nó, cho đến khi mắt nó nhắm tịt lại, và nói tiếp:
- Nhân danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh, mẹ làm phép thánh cho con và cho con mang tên Yan, và ngay bây giờ, hỡi linh hồn „của chúa”, con hãy trở về nơi con đã đến đây*, Amen!
Nhưng linh hồn của chúa chẳng một chút xíu nào muốn trở về nơi nó đến đây, chẳng chút xíu nào muốn từ bỏ tấm thân gầy guộc, và dĩ nhiên, cậu bé bắt đầu đạp đôi chân lia lịa mà cậu có thể, và khóc, cho dù yếu ớt và buồn thảm đến nỗi, như các bà mẹ đỡ đầu nói: nó người chẳng giống người, ngợm chẳng giống ngợm.
Đức cha được mời đến, làm xong việc rồi đi; sức khỏe sản phụ đã khá hơn. Một tuần sau bà mẹ đi làm. Thằng bé thở khó nhọc, nhưng vẫn cứ thở; cho đến năm lên bốn, khi mùa xuân đến, chim cúc cu gáy vào con bệnh (1), thằng bé khỏe ra và với sức khỏe đó nó sống được đến năm lên mười.
Lúc nào thằng bé cũng gầy guộc, đen nhẻm, với cái bụng ỏng, má hóp lại, tóc rối bù như những sợi gai màu trắng rủ xuống cặp mắt lồi đang nhìn đời như bị thôi miên vào một chốn xa xăm vô tận nào đó. Mùa đông nó ngồi sau lò sưởi và khóc tấm tức vì lạnh, đôi khi vì đói, vì mẹ nó chẳng có thứ gì để ném vào đống lửa hay vào nồi; mùa hè nó mặc sơ mi màu trắng rách bươm với dải áo phất phơ, đội cái mũ lá rách tả tơi, đầu ngững lên trông như một con chim. Mẹ của cậu bé, một người đàn bà nghèo khổ vô gia cư, không có miếng đất cắm dùi, hàng ngày sống đợ dưới mái nhà người ta như con chim én, có lẽ bà cũng yêu con nhưng yêu theo kiểu của mình, rất hay đánh con và gọi nó là ”thằng quỷ sứ”. Lên tám tuổi, nó đã là thằng bé giúp việc chăn gia súc , hoặc khi trong nhà không có gì ăn, nó vào rừng rậm hái nấm. Nhờ tình yêu của Chúa nên nó đã không bị sói ăn thịt.
Thằng bé chẳng thông minh gì cho lắm, và giống như những đứa trẻ nhà quê khác, khi nói chuyện với người lớn thường cắn ngón tay. Người ta chẳng hi vọng là nó sẽ lớn lên thành người, mẹ nó lại càng không thể chờ nó trở thành đứa con hiếu thảo, vì nó chẳng làm nên trò trống gì. Không biết vì sao nhưng thằng bé đặc biệt thích âm nhạc. Nó nghe thấy âm nhạc khắp nơi, mà càng lớn nó càng mê đến nỗi không nghĩ gì khác ngoài âm nhạc. Đôi khi nó vào rừng với đàn gia súc hoặc với cái nồi hai ngăn để hái quả dại, rồi trở về tay không và thầm thì với mẹ:
- Mẹ ơi! Trong rừng cái gì đó chơi nhạc cho mẹ. Ôi! Ôi!
Người mẹ trả lời:
- Thì tao cho mày nhạc này, thì nhạc này! Mày chạy đi đâu!
Bà mẹ thỉnh thoảng lại cho cậu con trai nếm mùi chơi nhạc bằng cái muôi bằng gỗ. Thằng bé thét lên, hứa là sẽ không nghe chơi nhạc nữa, nhưng vẫn nghĩ rằng trong rừng có cái gì đó đang chơi nhạc. Với nó, rừng thông, rừng sồi, rừng bạch dương, chim vàng anh, mọi thứ đều chơi nhạc: cả khu rừng, tất cả đều chơi nhạc cho nó nghe!
Dư âm cũng thế… Ngoài cánh đồng những cây ngải chơi nhạc cho nó nghe, trong vườn dưới mái nhà nó ở, những con chim sẻ kêu ríu rít đến nỗi cây anh đào cũng run rẩy! Chiều chiều nó lại lắng nghe mọi thứ tiếng mà ở quê hay có, và nghĩ rằng cả làng chơi nhạc cho nó. Khi người ta sai nó đi cào phân gia súc, thậm chí nó còn nghe thấy tiếng gió vi vu trong cái cào.
Một lần người quản lý trang trại nhìn thấy thằng bé đầu tóc rối bù đang đứng nghe tiếng gió thổi qua những cái cào bằng gỗ, ông ta cởi cái thắt lưng da và quất cho nó một trận nhớ đời. Chẳng biết đánh thằng bé để làm gì! Người ta gọi nó là „Yankô nhạc công”!... Mùa xuân nó ra khỏi nhà để làm những cây sáo dọc bờ suối. Hàng đêm, khi ếch nhái ộp oạp, chim cuốc trên cánh đồng kêu cuốc cuốc, bọ cánh kêu râm ran trong sương, gà trống gáy xao xác sau hàng rào, cậu bé không tài nào ngủ được, chỉ lắng nghe, và có trời mà biết được, thằng bé nghe được thứ âm nhạc gì trong đó… Bà mẹ không thể đưa nó đến nhà thờ, vì đã có lần mới nghe thấy tiếng đại phong cầm hay giọng hát đồng ca ngọt ngào vang lên, đôi mắt thằng bé như bị che bởi một màn sương và trông đờ đẫn như không phải ở thế giới này.
Ban đêm, người gác đi khắp làng, anh ta thường đếm các vì sao trên trời hoặc lẩm bẩm gì đó với lũ chó để khỏi ngủ gật, đôi lần đã nhìn thấy cái áo trắng của Yankô biến vào bóng đêm phía cái quán. Song không phải thằng bé vào trong quán, mà nó chỉ đứng bên ngoài. Ở đó nó ém người vào tường và lắng nghe. Trong quán đang nhảy điệu oberek (2), đôi lúc người điều khiển lại kêu lên: ”U ra!”. Tiếng ủng dẫm lên sàn thình thịch, tiếng các cô gái thỉnh thoảng lại ré lên: „Sao thế?”. Tiếng vĩ cầm hát khe khẽ: „Hãy ăn đi, hãy uống đi, hãy vui vẻ đi”, đàn bốn dây buông giọng trầm ra vẻ quan trọng: „Chừng nào Đức Chúa Trời vẫn còn cho ta!”. Các cửa sổ nhấp nháy ánh đèn, từng xà nhà của quán như rung lên, như đang hát và chơi nhạc theo, và cậu bé Yanko thì lắng nghe chăm chú…
Cậu bé sẽ đổi cái gì để có được chiếc vĩ cầm đang lặng lẽ chơi bài: „Hãy ăn đi, hãy uống đi, hãy vui vẻ đi”. Những tấm gỗ biết hát như thế. Ôi! lấy ở đâu ra được nhỉ? Người ta làm nó ở đâu nhỉ? Gía mà được cầm lấy cái vật ấy một lần trong tay dù chỉ một lần thôi!... Đâu có được! Cậu chỉ được mải mê nghe cho đến khi tiếng người gác đêm vang lên từ trong bóng tối:
- Thằng lõi con! Mày chưa về nhà sao?
Lúc đó cậu bé mới chạy biến về nhà bằng đôi chân trần của mình, tiếng vĩ cầm còn đuổi theo nó trong bóng tối: „Hãy ăn đi, hãy uống đi, hãy vui vẻ đi”, và tiếng trầm trầm của đàn bốn dây: „Chừng nào Đức Chúa Trời vẫn còn cho ta!”.
Hễ nghe thấy tiếng vĩ cầm, dù là ở đám cưới, dù là ở ngày hội mùa, với thằng bé đã là ngày hội lớn. Sau đó nó trốn sau lò sưởi suốt ngày đêm, nhìn vào đêm tối bằng đôi mắt rực lửa của con mèo. Rồi nó lại làm cho mình chiếc vĩ cầm từ một khúc gỗ uốn cong và lông đuôi ngựa, nhưng chiếc vĩ cầm này không biết chơi hay như chiếc vĩ cầm trong quán: nó kêu rất nhỏ, giống như tiếng ruồi muỗi vo ve. Vậy mà nó vẫn chơi cái đàn này suốt ngày từ sáng đến tối cho dù phải nhận bao nhiêu roi vọt để rồi cuối cùng trông nó như một quả táo xanh dập nát. Nhưng cái số của nó là như vậy. Thằng bé càng ngày càng còm đi, chỉ có cái bụng lúc nào cũng ỏng eo, đầu tóc càng ngày càng rậm rạp và cặp mắt càng ngày càng mở to và lúc nào cũng như chực khóc, má và ngực càng ngày càng lõm hơn…
Nhưng tình yêu âm nhạc vẫn không rời bỏ nó.
Người giúp việc trong lâu đài có một cây vĩ cầm, những lúc rỗi, anh ta chỉ chơi nhạc để ve vãn cô hầu gái của gia đình chủ lâu đài thôi. Thỉnh thoảng Yankô bò giữa bụi ngưu bàng đến tận cánh cửa bỏ ngỏ của phòng người giúp việc, để ngắm cây vĩ cầm. Cây vĩ cầm treo trên tường đối diện với cánh cửa. Vậy nên thằng bé đã gửi gắm hồn mình qua đôi mắt, vì đối với nó, cây vĩ cầm là cái gì đó thật thiêng liêng không thể với tới được, cũng không được động đến, là một cái gì đó yêu thương, quý giá vô cùng của nó. Song thằng bé khao khát nó. Nó muốn ít nhất một lần có cây vĩ cầm trong tay, chí ít để ngắm nhìn ở khoảng cách gần hơn. Ý nghĩ này làm cho trái tim nhỏ bé, quê mùa tội nghiệp của thằng bé run lên vì hạnh phúc.
Một tối nọ không thấy có ai trong phòng người phục vụ. Đã từ lâu ông bà chủ lâu đài đi ra nước ngoài, nhà cửa trở nên trống trãi, vì thế anh chàng phục vụ sang bên phòng cô hầu gái ở cuối phía bên kia để tán gẫu. Trốn giữa bụi ngưu bàng, qua cánh cửa mở rộng, thằng bé từ lâu đã ngắm nghía cái mục tiêu của mọi nỗi khát vọng của mình. Trên trời trăng rằm sáng vằng vặc, chiếu xiên qua cửa sổ vào trong phòng, phản chiếu lên bức tường đối diện một quầng sáng hình vuông lớn. Hình vuông này nhích chậm chạp đến gần cây vĩ cầm treo trên tường để rồi cuối cùng chiếu sáng nó hoàn toàn. Lúc đó, từ đêm đen thăm thẳm, cây vĩ cầm như phát lên một luồng sáng màu bạc, nhất là ở những phần cong lồi ánh sáng mạnh đến nỗi Yanek khó khăn lắm mới nhìn được vào nó. Trong luồng sáng đó thấy rõ mồn một mọi thứ hoàn hảo: bầu âm thanh, dây đàn và đầu cong của đàn. Những khóa dây ở đầu đàn lấp lánh sáng như những con đôm đốm, cạnh vĩ cầm là cây vĩ có hình thanh gỗ mầu bạc…
Ôi! Mọi thứ tuyệt vời và huyền ảo làm sao! Janek càng ngắm càng thèm. Dán mình vào giữa bụi ngưu bàng, khuỷu tay tựa vào đầu gối khẳng khiu, thằng bé há hốc miệng nhìn. Nỗi sợ hãi giữ thằng bé ngồi yên tại chỗ, nhưng một sự thèm muốn không cưỡng lại được đẩy hắn lên phía trước. Ma lực hay sao? Song cây vĩ cầm trong ánh sáng đôi lúc như lại gần, như bơi đến với thằng bé… Đôi lúc nó biến mất, để rồi lại sáng bừng lên hơn trước. Đúng là ma thuật! Trong lúc này gió hiu hiu thổi, cây cối rì rầm, bụi ngưu bàng rung lên khe khẽ, còn Yanek nghe thấy tiếng rõ ràng:
- Vào đi nào, Yanek! Trong phòng không có ai đâu… Vào đi nào, Yanek!...
Đêm trăng bàng bạc. Họa mi cất tiếng hót thầm thì trên cái ao trong vườn tòa lâu đài, nó hót rõ nhất câu này: „Vào đi nào! Tiến lên đi! Lấy đi nào!”. Một chú chim cú muỗi lượn vòng quanh đầu thằng bé và gọi: „Yanek, đừng vào! Đừng vào!”. Nhưng chim cú muỗi bay đi, chim họa mi ở lại và những cây ngưu bàng lại lẩm bẩm rõ ràng hơn: „ Trong phòng không có ai đâu!” Cây vĩ cầm lại lấp lánh…
Cái bóng co ro, nhỏ thó, tội nghiệp từ từ và thận trọng nhích lên phía trước, lúc này họa mi hót rất khẽ: „Vào đi nào! Tiến lên đi! Lấy đi nào!”
Cái sơ mi trắng thấp thoáng càng gần đến cánh cửa mở toang của phòng. Bụi ngưu bàng tối đen không giấu được nó nữa. Trên bậc cửa vọng lên tiếng thở dồn dập của một bộ ngực ốm yếu trẻ thơ. Rồi, sơ mi trắng biến mất, chỉ còn một cái chân trần nhô lên ngoài ngưỡng cửa. Vô ích, cú muỗi ơi, mày hãy bay đến đây lần nữa và hãy gọi; „Đừng vào! Đừng vào!” Nhưng Yanek đã ở trong phòng mất rồi.
Bọn ếch nhái trong hồ của vườn cây lại gào ầm lên như bị đánh động rồi lại im bặt. Họa mi thôi hót, bụi ngưu bàng thôi thầm thì. Lúc này Yanek bò nhẹ nhàng và thận trọng, nhưng rồi một nỗi sợ hãi bao trùm lấy nó. Trong bụi ngưu bàng, nó cảm thấy như ở nhà, giống như con thú hoang giữa rừng cây rậm rạp, còn giờ đây nó lại như con thú hoang đang mắc bẫy. Chuyển động của nó cứng đơ đơ, hơi thở dồn dập và rít lên, và bóng tối lại bao trùm lấy nó. Một tia chớp mùa hè lặng lẽ nháy lên giữa phương đông và phương tây, một lần nữa chiếu sáng bên trong căn phòng và thằng bé đang bò đến trước cây vĩ cầm với cái đầu ngẩng lên. Rồi tia chớp lịm đi, đám mây nhỏ che mất mặt trăng và không còn nghe thấy và nhìn thấy gì nữa.
Một lúc sau, từ trong đêm tối vang lên một tiếng khe khẽ và buồn đến não lòng, như ai vô tình chạm vào dây đàn – và bỗng nhiên…
Một giọng ồm ồm ngái ngủ từ góc phòng giận dữ hỏi:
- Ai đấy?
Yanek dấu hơi thở vào ngực, nhưng giọng ồm ồm vẫn hỏi lại:
- Ai đấy?
Ánh sáng diêm lập lòe trên tường, rồi mọi vật được chiếu sáng, rồi… Ôi! Lạy chúa! Nghe thấy tiếng chửi tục, chửi thề, tiếng đánh, tiếng khóc của trẻ con, tiếng kêu: „Thì Chúa này!”, tiếng chó sủa, những ngọn nến nháo nhác khắp các cửa sổ, tiếng ồn ào trong cả tòa lâu đài…
Hôm sau thằng bé Yanek tội nghiệp phải ra trước tòa án của xã trưởng.
Chẳng lẽ lại xử án thằng bé như một kẻ ăn trộm sao? Đương nhiên. Xã trưởng và những quan tòa nhìn thằng bé đang đứng trước mặt, miệng gặm ngón tay, với cặp mắt lồi đang sợ sệt, bé bỏng, gầy guộc, nhem nhuốc, mình đầy thương tích, không biết mình đang ở đâu và người ta muốn gì ở nó. Sao lại có thể kết tội thằng bé tội nghiệp mới lên mười và đứng không vững? Tống nó vào nhà tù hay làm gì nó?... Cần phải có chút lòng nhân ái đối với trẻ con chứ. Hãy đưa nó cho người tuần đêm, cho hắn ta quất cho nó mấy roi, để nó không bao giờ ăn cắp nữa, và chỉ thế thôi.
Và người ta đã làm như vậy.
Họ gọi Stach, người tuần đêm đến và lệnh:
- Hãy đưa nó đi và cho nó một trận nhớ đời!
Stach gật gật cái đầu súc vật và ngu ngốc của mình, cắp nách thằng bé như cắp con gà và mang đến nhà chứa rơm. Thằng bé có thể không biết chuyện gì sẽ xẩy ra với nó hoặc vì sợ quá nên không kêu lên tiếng nào, mắt thao láo như một con chim. Chẳng lẽ nó không biết người ta sẽ làm gì mình? Mãi đến lúc ở trong nhà chứa rơm, khi Stach thượng cẳng chân hạ cẳng tay, căng thằng bé xuống đất, kéo cái sơ mi rách lên, múa tay đến tai, Yanek mới kêu:
- Mẹ ơi! – và cứ một roi của người tuần, thằng bé lại kêu: Mẹ ơi! – Rồi tiếng kêu ngày càng bé đi, yếu đi cho đến lần thứ nào đó nó lịm đi và không còn gọi mẹ nữa. ..
Tội nghiệp cho cây vĩ cầm rách nát!...
Này hỡi lão Stach ngu dốt và độc ác! Sao mi lại đánh thằng bé tàn nhẫn như vậy? Nó bé bỏng, yếu ớt và lúc nào cũng như sắp gần đất xa trời.
Bà mẹ đến nhận lấy thằng bé, nhưng phải bế nó về nhà… Hôm sau Yanek không dậy, đến chiều tối ngày thứ ba nó tắt thở trên giường dưới tấm thảm dệt bằng gai.
Những con chim én ríu rít trong chùm lá cây anh đào ở gần cái ghế cạnh tường nhà, một tia nắng phản chiếu qua kính và rọi lên đầu tóc rối bời, khuôn mặt trắng bệch của thằng bé bằng một ánh sáng màu vàng. Tia nắng ấy giống như con đường mà linh hồn trẻ thơ của thằng bé thóat lên. May mà đến phút cuối cùng linh hồn đó đã ra đi trên con đường ánh sáng thênh thang, bởi khi sống nó đã phải lê bước trên con đường đầy gai góc. Trong khi bộ ngực lép kẹp của nó vẫn còn thoi thóp, thì khuôn mặt vẫn như đang chìm đắm lắng nghe tiếng vọng của làng quê qua cửa sổ mở. Đấy là một buổi chiều, các cô thôn nữ vừa cắt cỏ trở về đang hát: „Ôi! Trên thảm cỏ xanh”, dòng suối vẫn đang róc rách như thổi sáo. Yanek lắng nghe lần cuối khúc nhạc đồng quê… Chiếc vĩ cầm tự tạo của thằng bé vẫn nằm trên tấm thảm gai cạnh nó.
Bỗng nhiên khuôn mặt thằng bé đang hấp hối rạng ngời lên, một giọng thì thào phát ra từ cặp môi tái mét:
- Mẹ à?
- Gì thế hả con? – người mẹ nức nở hỏi lại…
- Mẹ ơi, Chúa trên trời sẽ cho con cây vĩ cầm thật chứ?
- Con ơi, Chúa Trời sẽ cho con – Bà mẹ trả lời, song không thể nói tiếp vì bất chợt một sự tiếc thương vô hạn trào dâng từ lồng ngực cứng rắn của bà, bà chỉ mấp máy: „Ôi! Lạy chúa! Lạy chúa!”, mặt bà gục xuống, khóc nức nở, như mất trí, như người biết chắc chắn rằng không thể cứu được người ruột thịt của mình khỏi lưỡi hái thần chết…
Không thể cứu con được nữa, bà ngồi dậy, lại nhìn thằng bé, đôi mắt nó mở to, bất động, khuôn mặt của nó thật nghiêm trang, buồn và đanh lại. Tia nắng cũng tắt.
Hãy ngủ yên, Yanek ơi!
*
Hôm sau gia đình chủ lâu đài từ Ý trở về, có cả cô con gái và chàng trai đang theo đuổi cô. Chàng trai nói:
- Quel beau pays que l’Italie! (3)
- Và thật là một dân tộc toàn nghệ sĩ. On est heureux de chercher la-bas des talents et de les proteger (4)… - cô nàng nói thêm.
Rừng bạch dương vẫn rì rào trên ngôi mộ của Yan…
Chú thích của dịch giả:
Yan là tên chính thức của đứa bé, các tên Yanek, Yankô là tên gọi thân mật của Yan.
* - Lời của kinh thánh, đại ý nói rằng con người ta sinh ra từ cát bụi, để rồi khi chết lại trở về với cát bụi. “Con hãy trở về nơi con đã đến đây” tức là con hãy trở về với cát bụi, nơi con từ cát bụi đã đến đây.
(1) – Một số làng quê Ba Lan xưa tin rằng nếu chim cu gáy vào ai đó, sẽ đưa đến cho người ấy một sự thay đổi có thể là tốt, có thể là xấu.
(2) – Một điệu nhảy dân gian Ba Lan
(3) – Tiếng Pháp trong nguyên bản: Nước Ý đẹp làm sao.
(4) - Tiếng Pháp trong nguyên bản: Ở đó hạnh phúc là tìm kiếm tài năng và nâng đỡ nó.
Bình luận