NGUYỄN VĂN THÁI
Sau chương trình hội thảo „Báo chí với việc nâng cao hiệu quả dạy và học tiếng Việt trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài” tổ chức ngày 22-10-2013 tại Hà Nội, từ 23 đến 30 tháng 10 năm 2013 đoàn báo chí kiều bào chúng tôi được tham gia vào một chuyến đi xuyên Việt từ Thủ đô Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh do Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài tổ chức. Đây là chuyến đi để lại nhiều ấn tượng sâu đậm, mặc dù với thời gian 8 ngày ngắn ngủi, phải vượt đoạn đường 1730 km trên quốc lộ 1A, chúng tôi chỉ có thể „cưỡi ngựa xem hoa” chứ không có điều kiện dừng lại để tìm hiểu về đất nước con người một cách cặn kẽ. Với nhiều người trong chúng ta việc thực hiện một chuyến hành trình xuyên Việt hiện nay không phải là vấn đề khó khăn, song thông thường ít người quan tâm, phần vì thời gian về thăm quê hương đất nước có hạn, phần vì chưa cảm thấy cần thiết. Người quê miền Bắc thì sau khi về thăm gia đình thường bay vào Th.p HCM để đặt hàng, rồi nếu còn thời gian sẽ tranh thủ đi tắm biển ở Vũng Tầu, Phú Quốc, Nha Trang, Mũi Né v.v... Người miền Nam thường ít khi muốn đi ra Bắc, nếu ai chưa biết Hà Nội, chưa biết Vịnh Hạ Long thì có thể cố ra một lần cho biết, còn nhìn chung thường không cảm thấy có nhu cầu thực hiện một cuộc hành trình xuyên Việt, nhất là hành trình đường bộ hoặc đường sắt.
Tôi vốn làm nghề đo đạc bản đồ, thường tự hào là đã từng đặt chân đến hầu hết các tỉnh thành trên cả nước, kể cả ở miền Bắc lẫn miền Nam, miền núi lẫn đồng bằng. Trong những năm 1974 – 1977, khi xây dựng mạng lưới trọng lực cơ bản nhà nước, chúng tôi đã đặt các điểm trọng lực hạng II cách nhau khoảng 40 km dọc theo các tuyến đường quốc lộ chính bao phủ diện tích cả nước. Chúng tôi đo theo chương trình A-B-A-B, nghĩa là mỗi đoạn đường phải đi lại 3 lần, do đó lúc bấy giờ con đường Hà Nội - Sài Gòn đối với tôi đã trở nên quá quen thuộc. Dĩ nhiên đó là con đường bị chiến tranh tàn phá nặng nề, hàng loạt trở ngại trên đường chưa kịp khắc phục, hàng loạt ổ gà, ổ voi, đường ngầm và đặc biệt là những cây cầu bị phá, những bến phà mà muốn sang sông phải xếp hàng chờ đợi đến nửa ngày v.v... Lần này, mặc dù đã chuẩn bị tư tưởng sẽ được chứng kiến nhiều biến chuyển sau gần 40 năm xa cách, song tôi vẫn không khỏi ngạc nhiên trước tình hình thực tế với những thay đổi lớn lao vượt ngoài sức tưởng tượng của mình. Hầu như tôi không thể nhận ra bất cứ địa danh nào, cái thị xã Thanh Hóa nghèo nàn toàn nhà tranh vách đất xưa kia, cái gọi là „thành phố” Vinh tiêu điều xơ xác với vài con đường bụi đất đỏ lòm năm nào giờ đây đã đứng hiên ngang kiêu hãnh với những ngôi nhà cao tầng hiện đại, công viên to lớn bề thế, xe cộ nườm nượp ngược xuôi. Hầu hết các thành phố, thị xã, thị trấn dọc quốc lộ 1A kể từ Hà Nam, Ninh Bình đến miền Trung đều khác hẳn những gì mà tôi nhìn thấy trước thời kỳ đổi mới.
Ngày 23 tháng 10 đoàn chúng tôi dành trọn một ngày để tham quan khu du lịch sinh thái Tràng An Ninh Bình. Liên khu danh thắng Tràng An, Tam Cốc, cố đô Hoa Lư là khu du lịch cấp quốc gia đặc biệt quan trọng, là đại diện di sản của Việt Nam ứng cử di sản thế giới với những giá trị nổi bật về cảnh quan thiên nhiên, lịch sử văn hóa và kiến tạo địa chất. Kỳ vọng trong tương lai nó sẽ trở thành khu du lịch tầm cỡ thế giới. Đề tài về Tràng An tôi sẽ trở lại trong một bài viết riêng dành cho các địa điểm du lịch hấp dẫn như Sa Pa, Tràng An, Nha Trang, Mũi Né, Vũng Tầu, Côn Đảo v.v... Đến Tràng An lần này chúng tôi cũng được bơi thuyền ở Tam Cốc, thưởng thức món thịt dê núi, cơm cháy đặc sản Ninh Bình và nghe những người lái đò kể chuyện về lịch sử quê hương họ.
Những cây cầu nổi tiếng thường để lại ấn tượng sâu đậm, những cái tên như Hàm Rồng, Bến Thủy, Hiền Lương, Thạch Hãn v.v... đã đi vào lịch sử như những biểu tượng của tinh thần anh hùng bất khuất và trở nên thân quen đối với mỗi người dân Việt. Đặc biệt cái tên Bến Thủy gợi cho tôi nhớ đến những ngày tháng chiến tranh ác liệt, việc vượt phà vất vả khó khăn, những đoàn xe pháo và vũ khí nườm nượp tiến vào Nam đầu năm 1975... Giờ đây cây cầu Bến Thủy đã sừng sững hiên ngang bắc qua con sông mà trước kia, khi đi phà qua, chúng tôi cảm thấy sao nó rộng lớn mênh mông và dữ dằn như biển cả.
Những năm xưa Nghệ An, Hà Tĩnh đối với tôi là các miền quê nghèo xơ xác, những cánh đồng lúa cằn cỗi, những xóm làng toàn nhà tranh vách đất, những đứa trẻ chăn trâu mặc độc manh áo rách, những khóm tre vàng hoe, những khuôn mặt khắc khổ. Trước đây mỗi lần nghĩ đến Quảng Bình, Quảng Trị tôi lại như nhìn thấy những cồn cát mênh mông chạy dài ngút tầm mắt, chỉ thấy cát trắng và vài cây phi lao khẳng khiu gầy guộc, chỉ thấy đất bạc màu và những làng xóm xác xơ, chỉ thấy nắng và gió.
Lần này đoàn chúng tôi đi ngang Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị đúng vào những ngày sau khi cơn bão số 12 vừa tràn qua. Nhiều cánh đồng hai bên đường đầy ắp toàn nước là nước, rất nhiều cây rừng bị đổ ngả nghiêng, chắc chắn vùng này vẫn là một trong những vùng nghèo khó nhất nước, song làng mạc nhà cửa ven đường trông đã khang trang hơn trước rất nhiều, các hệ thống thủy lợi mương máng trông khá bề thế, đặc biệt không còn thấy những cồn cát trắng mênh mông.
Hình ảnh trên đường ở Vinh.
Đường sá ở Việt Nam, đặc biệt là quốc lộ số 1 vẫn còn nhỏ hẹp khó đi, nhiều đoạn chưa có đường hai chiều, các điểm dân cư đông đúc, các thị trấn, thị xã, thành phố hầu như phủ kín hai bên đường, do đó các phương tiện vận tải buộc phải hạn chế tốc độ. Xe của đoàn chúng tôi, loại xe khách 45 chỗ ngồi khá tiện nghi và hiện đại, cũng chỉ có thể di chuyển trên đường với tốc độ trung bình khoảng 30 km/h. Đến bao giờ Việt Nam chúng ta mới thực sự có các tuyến đường cao tốc giống như các nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á? Để tránh kẹt xe chúng tôi phải đi theo những đường vành đai bên ngoài các thành phố như Hà Tĩnh, Đồng Hới, Đông Hà, Quảng Trị v.v... Vì vậy tôi không có dịp chứng kiến những đổi thay ở các địa phương đó.
Huế với tôi lúc nào cũng là thành phố âm u trầm mặc, đầy mưa và thấm buồn. Lần này chỉ được ghé Huế ăn trưa, không được nghỉ lại tham quan cố đô Huế, không qua chợ Đông Ba, không có dịp ngắm dòng sông Hương thơ mộng, trời lại mưa và lạnh...
Đèo Hải Vân vốn là cảnh đẹp hiếm có trên con đường từ Huế vào Đà Nẵng, nó vừa là thách thức vừa là phần thưởng lớn lao đối với mỗi du khách. Trước đây chúng tôi phải vô cùng vất vả vượt qua dải đèo cao vun vút, một bên là vách núi sừng sững đầy mây phủ, một bên là vực sâu hun hút mà ở đáy là biển xanh rờn, con đèo vừa quanh co hiểm trở, vừa đẹp đến mê hồn. Lần này chúng tôi không vượt đèo mà đi xuyên qua một đường hầm dài, đó là đường hầm đèo Hải Vân. Đây là hầm đường bộ dài nhất Đông Nam Á (6280m), rộng 10 m, có hệ thống chiếu sáng tốt, tốc độ xe trung bình khoảng 50 km/h.
Biển Việt Nam đẹp rực rỡ nhìn từ Đèo Cả
Mời bạn xem video vẻ đẹp biển VN (nhấn đường link dưới đây)
Thành phố Đà Nẵng, trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ lớn của khu vực miền Trung, vốn được các phương tiện truyền thông nhắc đến như biểu tượng của một thành phố hiện đại, được xây dựng bài bản, bắt đầu bằng việc phát triển cơ sở hạ tầng, với những cây cầu nổi tiếng bắc qua sông Hàn, thành phố duy nhất không có nạn tắc xe giờ cao điểm, đảm bảo hài hòa giữa phát triển đô thị và bảo vệ môi trường, được coi là thành phố đáng sống nhất Việt Nam. Bây giờ thành phố này đang thực hiện 5 không: không có người mù chữ, không có người lang thang xin ăn, không có người nghiện ma túy, không có giết người cướp của. Nhớ thời mới giải phóng, khi đi công tác qua Đà Nẵng chúng tôi không thể quên hình ảnh các cô gái „mắt xanh mỏ đỏ” bao vây khi anh em đo đạc chúng tôi ngồi giải khát bên cạnh dãy hàng quán dọc bờ sông Hàn. Hình ảnh bụi cát mịt mù khi người ta đua nhau khai thác đá trên đỉnh Ngũ Hành Sơn những năm 1976 bây giờ cũng không còn nữa. Ven hai bờ sông Hàn người ta đã đắp kè đá và trồng cây xanh. Nhiều nhà cao tầng mọc lên trông nguy nga lộng lẫy không thua kém các thành phố châu Âu. Nghe nói giá một mét vuông nhà chung cư đầy đủ tiện nghi ở trung tâm thành phố cũng chỉ xấp xỉ 15 triệu VNĐ.
Kỷ niệm của Đoàn với Đà nẵng
Chúng tôi đã được tham quan khu du lịch sinh thái nổi tiếng Bà Nà, cách trung tâm thành phố khoảng 25 km về phía Tây Nam. Ở độ cao gần 1500 m so với mực nước biển, Bà Nà được mệnh danh là „lá phổi xanh” của miền Trung, là „hòn ngọc về khí hậu của Việt Nam”. Đoàn chúng tôi may mắn được đi trên tuyến cáp treo mới khánh thành ngày 29 tháng 3 năm 2013 với 4 kỷ lục Guinness thế giới. Ngồi trong cabin nhìn xuống ta có cảm giác như đang bay trên những cánh rừng nguyên sinh hùng vĩ.
Sáng ngày 27 tháng 10 chúng tôi rời Đà Nẵng lên đường đi Quy Nhơn Bình Định. Nhìn chung cảnh sắc hai bên đường ở khu vực từ Đà Nẵng vào đến miền Nam khác biệt hẳn so với miền Bắc. Khí hậu nóng ấm tạo cho các ngôi nhà và làng mạc ở miền Nam diện mạo khác hẳn những làng quê miền Bắc. Đoàn chúng tôi nghỉ ăn trưa tại Quảng Ngãi. Ăn trưa xong chúng tôi gặp sự kiện đặc biệt xảy ra trên đường đi tiếp. Theo tin thu thập qua các báo mạng thì chính vào ngày 27-10-13 đó hàng ngàn người dân Quảng Ngãi đã xuống đường biểu tình phản đối việc một công ty tư nhân tiếp tục khai thác bất hợp pháp số lượng lớn cát vàng ở đáy sông đưa ra nước ngoài bán. Cuộc biểu tình diễn ra ngay trên quốc lộ 1A làm giao thông tắc nghẽn. Đoạn đường mà xe chúng tôi cùng các xe khác buộc phải đi vòng là đường liên xã liên thôn, vừa nhỏ hẹp, vừa gập ghềnh, nhiều chỗ còn đang thi công dở dang. Đi qua những đoạn đường ấy mới thấy ở vùng nông thôn xa quốc lộ nhà cửa của người dân còn quá chắp vá tạm bợ và nghèo nàn lạc hậu. Vì phải vòng tránh mất khá nhiều thời gian, hôm đó đoàn chúng tôi tới Quy Nhơn thì trời đã tối. Và cũng vì trời tối chúng tôi được nhìn thấy một thành phố Quy Nhơn rực rỡ đèn màu, uy nghi lộng lẫy và xinh đẹp như thành phố trong cổ tích. Tôi ngỡ ngàng vì những đường phố sáng trưng đầy màu sắc như vậy thường chỉ được nhìn thấy vào những dịp lễ hội ở các thành phố lớn. Sáng hôm sau tỉnh dậy, đứng trên khách sạn cao tầng nhìn xuống thì Quy Nhơn hiện ra cũng chỉ bình thường như một đô thị loại trung bình, với những ngôi nhà không cao lớn uy nghi nhưng đường phố thì sạch đẹp ngăn nắp. Chúng tôi được đến tham quan khu di tích lịch sử Quang Trung, nơi sinh ra và lớn lên của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ. Trên đường về chúng tôi đã đến viếng mộ nhà thơ Hàn Mạc Tử. Buổi chiều về tắm biển ở Quy Nhơn. Nước biển Quy Nhơn trong vắt, xanh thẳm và có vẻ mặn hơn ở nơi khác, sóng cũng vỗ mạnh hơn, dồn dập hơn thì phải.
Bên tượng đài anh hùng áo vải Nguyễn Huệ.
Sáng 29-10 chúng tôi phải dậy từ 5 giờ để lên đường tiếp tục cuộc hành trình. Ban tổ chức đưa ra kế hoạch trong một ngày phải vượt đoạn đường dài khoảng 700 km từ Quy Nhơn đến Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là đoạn đường khá tốt nhưng vì quá dài nên xe chúng tôi phải đi trên 17 tiếng đồng hồ mới hoàn thành được kế hoạch. Dọc đường chúng tôi chỉ nghỉ giải lao một chút tại đầu đường tránh Nha Trang và ăn trưa tại thành phố Phan Rang. Cảnh sắc hai bên đường giống như đoạn từ Đà Nẵng vào Nam. Qua Đèo Cả ngắm nhìn vùng biển Vũng Rô và hòn Nưa thấy cảnh đẹp không thua kém gì cảnh từ đèo Hải Vân nhìn xuống. Dọc theo dải đất hình chữ S của mình có biết bao nhiêu danh thắng đẹp đến nao lòng như vậy, vấn đề là chúng ta có thời gian và điều kiện, có ý thức và tâm hồn để tận hưởng nó hay không!
Khi xe bắt đầu vào đến xa lộ Hà Nội, đoạn đầu quận 2 Thành phố HCM thì cùng với những tòa cao ốc uy nghi lộng lẫy ở phía trước và hai bên đường, cùng với cảnh người dân hối hả ngược xuôi, cảnh cuộc sống đô thị ồn ào tấp nập, bắt đầu hiện lên cảnh tắc xe đáng sợ. Thành phố Hồ Chí Minh với diện tích trên 2 triệu km2, dân số thực tế trên 10 triệu người, với 19 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành, hiện nay là đô thị lớn nhất Việt Nam, giữ vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế đất nước. Vì tăng dân số quá nhanh, người từ mọi miền đất nước kéo về đây làm ăn sinh sống và khi đã đến đây thì hầu như không ai muốn dời đi nơi khác, „đất lành chim đậu”, do đó thành phố đang lâm vào cảnh quá tải cả về giao thông, bệnh viện lẫn trường học. Bài toán mà Đà Nẵng giải quyết thành công hôm qua và hôm nay chắc chắc không thể áp dụng được với thành phố khổng lồ này. Có điều dễ cảm nhận được là mặc dù nóng bức ồn ào như vậy, mặc dù cuộc sống có vẻ hối hả khẩn trương và gấp gáp như vậy, nhưng thành phố này vẫn dễ thở hơn, phóng khoáng hơn, hiền lành hơn và dễ thân thiện hơn so với nhiều nơi khác trên đất nước ta. Do không khí bao quanh ta, do thái độ lịch thiệp của con người, hay do cách sống hào hiệp vô tư của những con người phương Nam đôn hậu?
Chuyến đi xuyên Việt lần này coi như chấm dứt khi đoàn chúng tôi về đến thành phố Hồ Chí Minh đêm 29-10-2013. Những ấn tượng về chuyến đi sẽ còn sống mãi trong mỗi người chúng tôi, sẽ là hành trang làm giàu thêm tình cảm đối với quê hương đất nước, hướng chúng tôi về với cội nguồn, giúp sống đẹp hơn, có ích hơn trong những tháng năm ở xa Tổ Quốc.
Xin chân thành cám ơn Ủy ban Nhà nước về Người VN ở nước ngoài đã tổ chức chuyến đi đầy ý nghĩa dành cho đoàn báo chí kiều bào về nước dự hội thảo về việc dạy và học tiếng Việt trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài.
Tháng 10/2013
Bình luận