2016-03-11 14:52:19

Bảo nghĩa vương Trần Bình Trọng

            

            Trần Bình Trọng sinh năm kỷ mùi (1259) ở xã Bảo Thái, nay thuộc huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam, nguyên là dòng dõi Lê Đại Hành, nhưng vì ông nội có công dưới triều vua Trần Thái Tông, nên được phong quốc tích, mang họ vua. Bình Trọng mặt đẹp như ngọc, mắt sáng như sao, từ nhỏ đã theo võ nghiệp, sức mạnh siêu quần, không ai địch nổi. Năm mười bốn tuổi từng theo cha đi săn, đánh chết hổ ở núi Tản Viên. Lại giỏi cả binh thư, lầu thông kinh sử, ngày sau có cơ trở thành cái cột chống trời. Gia đình mấy đời làm đại tướng. Đến thời Bình Trọng thì nước nhà chẳng may phải đương đầu với giặc Nguyên.

Từ khi đánh được nước Kim ở phía bắc và dứt được nhà  Đại Tống ở phía nam Trung Quốc, vua Mông Cổ  Hốt Tất Liệt[i] cải quốc hiệu là Đại Nguyên, ý muốn chiếm cả An Nam, nhưng còn chưa cos dịp. Sứ nhà Nguyên thường đi lại kinh thành Thăng Long hạch sách đủ điều, rất là phiền toái. Đình thần ai cũng tức giận, nhưng biết mình là nước nhỏ, nên đành phải chịu. Nghe tin thượng hoàng Trần Thái Tông mất, Thánh Tông mới nhường ngôi cho con, Nguyên chủ Hốt Tất Liệt sai Lễ bộ thượng thư là Sài Thung sang sứ An Nam. Đến Thăng Long, Thung kiêu ngạo hống hách, cưỡi ngựa đi thẳng vào điện Dương Minh. Vua Nhân Tông sai quan đại thần ra tiếp, Thung không thèm đáp lễ. Vua bầy yến tiệc thết đãi cũng không thèm đến. Sau vua lại phải làm yến tiệc ở điện Tập Hiền, mời mãi y mới lại.

Trong lúc uống rượu, Sài Thung nói:

-    Sao không xin phép triều đình nhà Nguyên mà dám tự lập? Vậy phải sang chầu Thiên triều Hoàng đế mới xong.

Nhân Tông trả lời:

-    Quả nhân sinh trưởng ở trong cung, xưa nay không quen phong thổ, không thể nào đi được.

 Sài Thung về nước, Nhân Tông sai người đưa thư theo thoái thác Nguyên chủ việc không sang chầu. Năm nhâm ngọ (1282) Nguyên chủ cho sứ sang dụ rằng: „Nếu vua nước Nam không sang chầu được thì phải mang vàng ngọc sang thay, nộp hiền sĩ, thày bói, thợ khéo mỗi hạng hai người”. Nhân Tông không  nộp mà sai chú họ là Trần Di Ái thay mình sang chầu. Nguyên chủ không bằng lòng, liền đặt quan giám trị các châu huyện của An Nam, đưa sang. Quan nhà Nguyên sang đến nơi, Nhân Tông không nhận, đuổi về. Nguyên chủ giận lắm, phong ngay cho Trần Di Ái làm An Nam Quốc Vương và sai Sài Thung dẫn một nghìn quân đưa về nước. Trần Nhân Tông nghe tin, sai quân đón đường đánh. Sài Thung bị tên bắn mù mất một mắt, chạy về Tầu. Bọn Di Ái bị quan quân bắt cả, phải tội đồ làm lính. Nguyên chủ thấy dùng mưu không khuất phục được vua An Nam, bèn phong cho con là Thoát Hoan làm Trấn Nam vương, sai cùng với các tướng tài từng nổi danh ở đất Tống là A Lý Hải Nha, Lý Hằng, Áo Lỗ Xích, Trình Bằng Phi, Ô mã Nhi, Khoan Triệt…, dẫn quân cả thẩy năm mươi vạn sang xâm lăng, giả tiếng là mượn đường đi đánh Chiêm Thành.

Tại sao lại phải giả tiếng đánh Chiêm Thành? Nguyên hai năm về trước, Hốt Tất Liệt đã sai Toa Đô mang mười vạn quân đi đường biển xuống đánh lấy Chiêm Thành. Ấy cũng là kiểu cách „bắn một mũi tên để được hai con chim”. Chiếm được Chiêm Thành thì An Nam lọt vào giữa lãnh thổ nhà Nguyên, chẳng cần đánh cũng phải hàng. Nhà Trần biết mưu ấy, mật sai đại tướng mang hai vạn quân xuống giúp nước Chiêm. Toa Đô đánh mãi cũng không thắng nổi, phải án binh chờ tiếp viện. Về phía An Nam thì danh chính ngôn thuận vẫn thần phục nhà Nguyên, hàng năm triều cống. Vả lại đã có lần (1261) Hốt Tất Liệt từng xuống chiếu cho vua Trần nói rằng sẽ không cho quân mình xâm phạm bờ cõi An Nam. Vậy tự nhiên lại mang đại quân vào nước người ta, âu  không được chính danh. Ngoài ra cũng là để lung lạc một số người An Nam không hiểu hoặc cố ý không hiểu vấn đề, đời nào chẳng có những kẻ hèn nhát hoặc bán nước cầu vinh, nên nhà Nguyên mới nói thác ra việc mượn đường đi đánh Chiêm Thành.

            Trần Nhân Tông hỏi các quan. Người bảo để cho quân Nguyên đi qua, kẻ bảo mang lễ vật cống để xin hoãn binh. Chỉ có Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư là kiên quyết chủ chiến.

Quốc Tuấn nói:

- Đấy chẳng qua chỉ là kế mượn đường diệt Quắc. Ngày xưa thời Xuân Thu bên Tầu, nước Tấn muốn mượn đường nước Ngu, đánh nước Quắc. Vua nước Ngu tham ngựa quý và ngọc bích của nước Tấn, không nghe lời can phải, cho mượn đường. Diệt xong Quắc rồi, Tấn diệt luôn cả Ngu. Xin bệ hạ lấy đó làm gương, đừng mắc mưu giặc.

Nhân Tông nghe theo, phong cho Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh toàn bộ binh mã chống nhau với quân Nguyên. Mùa thu tháng tám năm giáp thân (1284), Quốc Tuấn truyền hịch cho các vương hầu hội hết quân sĩ ở bến Đông Bộ Đầu để kiểm duyệt. Thuỷ bộ cả thẩy được hai mươi vạn. Rồi sai Trần Bình Trọng đóng quân ở Bình Than, Trần Khánh Dư mang thuỷ quân án ngữ cửa biển Vân Đồn, các tướng chia nhau giữ những nơi hiểm yếu, còn mình tự thống lĩnh đại quân đóng ở Vạn Kiếp để tiếp ứng các nơi.

Khi quân Nguyên đã hội tại Hồ Quảng, chuẩn bị tiến sang Lạng Sơn, Nhân Tông có ý lo quân mình không địch nổi, sai đem lễ vật sang Tầu xin Nguyên chủ hoãn binh để thương lượng lại. Nguyên chủ không nghe, lệnh cho Thoát Hoan cứ việc tiến. Mùa đông tháng mười hai năm ấy (1284), Thoát Hoan xâm phạm biên ải An Nam, lại lần nữa sai người đưa thư sang nói cho mượn đường đi đánh Chiêm Thành. Nhân Tông tiếp được thư, trả lời rằng: “Từ bản quốc sang Chiêm Thành, thuỷ lục không đường nào tiện”. Thoát Hoan liền thúc quân ùa sang mạn Lạng Sơn. Rồi sai quan Bả tổng tên là A Lý đến dụ rằng: “Bản suý chỉ nhờ đường Nam quốc sang đánh Chiêm Thành. Nếu mở cửa ải cho quân bản suý đi qua và giúp cho ít nhiều lương thực, phá xong nước Chiêm sẽ có hậu tạ. Nhược bằng không thì bản suý sẽ phá tan bờ cõi”. Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn quát mắng, đuổi A Lý về, rồi phân binh giữ các ải Khả Li và Lộc Châu, còn mình tiến quân lên giữ núi Kì Cấp ở Lạng Sơn. Những chiến thuyền thì đóng ở Bái Tân giữ mặt thuỷ.

Thoát Hoan tự mình tiến đánh núi Kỳ Cấp. Quân Nguyên đông và mạnh, quân An Nam thì mấy chục năm không quen chinh chiến. Nhưng Hưng Đạo vương khéo dùng binh, lại được các tướng giỏi Trần Bình Trọng, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái…  dũng cảm vào sinh ra tử, xông pha tên đạn, nên hai bên đánh nhau mấy trận không phân thắng bại. Đến khi nghe tin hai ải Khả Li và Lộc Châu đều vỡ cả, Hưng Đạo vương lo quân mình bị vây, lui về cản giặc ở ải Chi Lăng. Thoát Hoan dẫn đại binh đến đánh Chi Lăng. Quân Nguyên ở Khả Li và Cự Lộc cũng kéo đến hội với Thoát Hoan. Hưng Đại vương lại càng yếu thế, định lui quân tiếp. Sai Trần Bình Trọng đi đoạn hậu.

Tối đến Hưng Đạo vương sai các trại cắt người đốt đuốc, đánh trống canh như thường. Nửa đêm đại quân người ngậm tăm, ngựa khoá miệng, từ từ rút lui. Chỉ có Trần Bình Trọng kéo quân bản bộ đến trước mấy trại tiền tiêu của giặc, đánh trống, hò reo inh ỏi cho át tiếng quân hành. Quân Nguyên không ngủ được, tưởng quân An Nam đến cướp trại, nhưng vì trời tối, chẳng rõ địch nhiều hay ít, thực  giả thế nào, không dám ra. Trần Bình Trọng chờ cho đại quân đi hết, cũng lục tục rút theo. Rạng ngày quân Nguyên mới kéo đến đánh đánh các trại An Nam thì thấy vắng tanh. Bọn lính đánh trống canh cũng kịp trèo qua núi mà tẩu tán cả rồi. Bấy giờ Thoát Hoan mới biết quân An Nam đã rút, liền tức khắc sai A Lý Hải Nha dẫn hai vạn quân đuổi theo. Hải Nha lại gọi viên phó tướng của mình là Nghê Nhuận đến dặn rằng:

-       Quốc Tuấn lui binh thể nào cũng để lại hậu quân. Ngươi mang năm nghìn lính kỵ

đi trước. Gặp địch thì giao chiến. Nếu yếu thế thì chạy, nhử cho chúng đuối. Nếu chúng không đuổi thì lại bám theo. Nhược bằng thắng thì chỉ cần đánh cầm chừng kìm chân chúng lại. Ta sẽ dẫn đại quân đến tiêu diệt, không để một tên nào chạy thoát. Phải đánh cho vua tôi An Nam khiếp đảm, biết thế nào là oai danh của kỵ binh Thiên triều.

            Nghê Nhuận vâng lệnh đi ngay.  Được khoảng mấy chục dặm đường thì vào một dãy núi rất hiểm trở, cây cối rậm rạp hoang dã, đường lối chật hẹp khó đi, hai bên vách đá chênh vênh dựng đứng. Nhuận có ý lo ngại, liền hỏi quan hướng đạo người Tầu:

-       Đây là nơi nào?

Viên quan giở bản địa đồ ra xem đi xem lại rồi nói:

-       Chỗ này chắc là Quỷ Môn Quan.

-       Sao lại gọi là Quỷ Môn Quan?

-       Ngày xưa quân nhà Tấn sang Giao Chỉ chinh phạt, chết hại ở đấy rất nhiều. Nghe

đồn là lắm ma quỷ, nên mới đặt tên như vậy.

Nghê Nhuận cả kinh, nói:

-       Đây đúng là Quỷ Môn Quan thật rồi!   

Liền quát tháo thúc quân đi mau mau ra khỏi chốn này. Quân lính không hiểu gì cả,

đương nhốn nháo thì bất thình lình một hồi trống nổi lên. Quân An Nam hò reo ầm ỹ. Từ trên núi gỗ đá lăn xuống ầm ầm. Nhê Nhuận giật bắn mình vội vàng ra lệnh rút lui, nhưng lệnh chưa truyền khắp, lối về đã bị lấp mất rồi. Trên núi tên nỏ bắn xuống như mưa. Quân Nguyên không có lối thoát giày xéo cả lên nhau. Nghê Nhuận cũng bị một mũi tên cắm vào bả vai. Không quay về được, y đành dẫn quân chạy bừa xuống phía nam. Vừa ra khỏi lối hẻm thì gặp ngay Trần Bình Trọng cưỡi ngựa, cầm ngang đao, đứng chắn đường. Nhuận rụng rời chân tay, bị Bình Trọng cho một nhát, lăn quay xuống ngựa. Năm nghìn quân Nguyên bị giết sạch, không thoát một mống nào.

            Diệt xong đám giặc rồi, Bình Trọng thu quân, cứ thong thả theo đường lớn mà đi.

Viên phó tướng là Lê Hâm lo ngại, nói rằng:

-       Quân ta ít. Đi bộ dềnh dàng thế này, nếu đại quân của giặc đuổi kịp, chẳng nguy

hiểm lắm ru? Sao tướng quân không cho đi đường tắt?

            Bình Trọng nói:

-       Tôi với ông cùng làm tướng của triều đình, ăn lộc nước mang ơn vua, lúc thái

bình mặc áo gấm, đến khi xã tắc lâm nguy, được Quốc công Tiết chế uỷ thác cho đi chặn hậu. Thế mà lại tránh giặc thì thử hỏi cánh ta còn dùng vào được việc gì? Nhưng ông đừng lo. Tiền quân của giặc bị giết sạch, tôi nghĩ nếu chúng là người thì cũng phải khiếp sợ, chưa chắc đã dám đuổi theo.

            Lê Hâm chịu là phải. Mãi đến khi gặp thám mã báo là Hưng Đạo vương về đến Bái Tân đã có chiến thuyền của Yết Kiêu đón đi Vạn Kiếp rồi, Bình Trọng mới cho quân trèo qua núi đi đường tắt, cũng  kéo về Vạn Kiếp. Tướng Nguyên là A Lý Hải Nha dẫn quân đuổi đến Quỷ Môn Quan, thấy tiền quân của mình bị giết cả, thây nằm ngổn ngang, có chỗ thành đống, quả nhiên không dám khinh thường, đường lối lại không thạo, nên không đuổi tiếp nữa. Trần Bình Trọng về đến Vạn Kiếp, điểm duyệt quân sĩ, thấy không thiếu một người nào. Hưng Đạo vương cho gọi đến hỏi han đầu đuôi, rồi khen ngợi hết lời:

-       Tướng quân thật là thần dũng. 

Đây lại kể đến vua Nhân Tông ở kinh thành nghe tin quân mình thua to, Hưng Đạo vương  về Vạn kiếp, thì không kịp ăn sáng, ngự một chiếc thuyền nhỏ xuống Hải Đông, vời Hưng Đạo vương đến bàn việc.

Vua lo lắng bảo rằng:

-       Thế giặc to như vậy mà chống với nó thì dân sự tàn tạ. Hay trẫm chịu hàng đi để

cứu muôn dân?

            Vương trả lời:

-        Bệ hạ nói câu ấy thì thật là lời nhân đức, nhưng mà tôn miếu xã tắc thì sao? Bệ

hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã.

            Vua Nghe lời trung liệt như vậy, trong bụng mới yên. Hưng Đạo vương lại tâu rằng, mấy trận vừa rồi các tướng đều thua cả, duy chỉ có Trần Bình Trọng là thắng giặc mà quân sĩ không tổn hại. Xem ra thì thấy giặc Nguyên tuy thiện chiến hùng mạnh, nhưng không phải là không đánh được. Nhân Tông mừng lắm, cho gọi Trần Bình Trọng đến, thưởng rất hậu, phong cho làm Kiến Đức hầu. Quân sĩ của Bình Trọng thì mỗi người được vua ban cho một tấm lụa và năm quan tiền. Các tướng cũng thu nhặt tàn quân dần dần về Vạn Kiếp. Binh thế lại to.

Thoát Hoan lấy xong các ải ở Lạng Sơn, phá quân An Nam ở Chi Lăng, thừa thắng kéo xuống đánh Vạn Kiếp. Quân An Nam vẫn không địch nổi, bao nhiêu thuyền bè mất hết. Quốc Tuấn đành lui về bến Đông Bộ Đầu, lập trại ở bờ nam canh giữ. Vua thân chinh mang chiến thuyền tiếp ứng, thấy quân Nguyên đến thì bắn pháo thách đánh. Thoát Hoan liền sai lấy súng đại bác bắn sang sông, phá tan cả các trại An Nam. Lại có thuỷ quân của Ô Mã Nhi kéo đến. Quân sĩ An Nam khiếp đảm bỏ chạy sạch cả. Quân Nguyên bắc cầu phao sang sông, kéo vào đến tận chân thành Thăng Long hạ trại. Hưng Đạo vương liệu cũng không thể giữ nổi kinh thành, liền để một số tướng ở lại, còn mình thì rước thái thượng hoàng Thánh Tông và vua  Nhân Tông cùng gia quyến lánh xuống phía nam. Trong số các võ quan đi theo hộ giá có Kiến Đức hầu Trần Bình Trọng.

Thoát Hoan vây hãm Thăng Long, biết thế quân mình áp đảo, chắc chắn thể nào cũng phá được thì rất là hả hê, sai Ô Mã Nhi dẫn thuỷ quân đi đường biển vào Chiêm Thành tiếp ứng cho Toa Đô, còn mình đích thân đôn đốc đánh thành. Đến khi hạ được Thăng Long, vào thành thấy cung thất trống không, tìm được trong tráp ít thư tín trao đổi với nhà Nguyên,  bèn gọi bọn tả thừa Lý Hằng và hữu thừa Khoan Triệt đến bảo rằng:

            -    Quân ta thế mạnh đánh đâu thắng đấy. Cuộc bình Nam mười phần kể đã được tám chín. Nhưng hai vua Trần thì trốn mất. Ta nghe nói gần sông Thiên Mạc có  phủ Thiên Trường, ngày xưa Thái Tông sai dựng để lúc về già ở. Hai vua Trần  chắc cũng chỉ chạy về đấy mà thôi. Các ngươi điểm ngay hai vạn tinh binh đuổi theo mà bắt lấy. Ta sẽ đem đại quân đi sau tiếp ứng cho. Bắt được vua An Nam, công các ngươi không phải là nhỏ.

            Hai tướng vâng lệnh dẫn thuyền chiến nhẹ và kỵ binh, thuỷ bộ hai đường cùng đuổi. Quân Nguyên bắt được lính An Nam, thấy ai cũng thích trên cánh tay hai chữ „sát Thát”, nghĩa là giết giặc Nguyên, thì tức giận đều đem giết cả, chỉ để lại mấy người, bắt dẫn đường xuống Thiên Trường. Thoát Hoan thống lĩnh đại quân lục tục kéo theo hai tướng[ii].

Đây lại kể đến xa giá của hai vua Trần, quả nhiên đi về Thiên Trường. Đến nơi, nghe tin Toa Đô từ Chiêm thành đánh ra Nghệ An, thế mạnh lắm. Hai cánh quân của Trần Nhật Duật và Trần Kiện không đương nổi. Nhân Tông lo lắng hỏi Hưng Đạo vương phải làm thế nào? Vương tâu, thượng tướng Trần Quang Khải đóng quân Khoái Lộ gần đây, nên sai ngay vào Nghệ An chặn giặc. Quang Khải vừa đi, lại có thêm tin Thăng Long thất thủ. Quân Nguyên đông như kiến đương đánh tràn xuống phía nam, đi đến đâu sát hại dân lành đến đấy, không ai ngăn được. Vua thấy tình hình nguy ngập khó lòng cứu vãn, quân giặc ngày một ngày hai thể nào cũng tiến đến Thiên Trường, liền họp triều thần lại, bảo rằng:

-       Hai mươi vạn hùng binh giờ đã tan nát cả. Ngoài này kinh đô thất thủ, trong kia

thì Nghệ An vỡ. Nghĩ đến cảnh nhân dân bị tàn sát, tông miếu xã tắc bị phá huỷ, mồ mả tổ tiên bị đào bới, xương cốt rơi vãi cả ngoài đồng, mà lòng trẫm đau như cắt. Trẫm từng nghe, làm một ông vua mà không giữ được nước thì cũng chẳng nên để cho người ta bắt. Trẫm chẳng muốn hổ thẹn với tổ tông, định quyết một trận tử chiến với giặc. Các khanh nghĩ sao?

            Các quan nghe vậy, nhiều người khiếp đảm. Riêng Hưng Đạo vương tâu:

-        Mong bệ hạ chớ nản lòng. Quân ta dẫu thua, nhưng chưa đến nỗi bị diệt, chỉ tản

mát mỗi nơi một ít mà thôi. Trong nước nhân dân một lòng, triều đình vua tôi hoà hợp, bệ hạ còn thì xã tắc còn, nếu bệ hạ chẳng may có mệnh hệ nào, xã tắc tông miếu tất nhiên cũng sẽ mất. Xin bệ hạ suy xét lại.

Nhân Tông hỏi:

-       Vậy bây giờ phải làm thế nào?

Vương nói:

-       Tôi cũng đã tính cả rồi. Nếu Thăng Long thất thủ, phải sai một tướng ở lại giữ

Thiên Trường cản giặc, còn xa giá thì hãy lánh tạm về Hải Đông. Quân Nguyên sang ta đường xa dặm thẳng, núi sông cách trở, lương thảo vận tải khó khăn, mùa hè đến khí hậu sẽ lam chướng, không thể mạnh mãi được. Bấy giờ ta sẽ liệu.

            Nhân Tông nghe ra, hỏi các tướng:

-       Có ai dám vì trẫm ở lại giữ Thiên Trường được không?

Trần Bình Trọng xin ở lại. Nhưng vì Bình Trọng là chồng của công chúa Thuỵ Bảo,

nên vua có vẻ ngần ngại. Nguyên Thuỵ  Bảo công chúa là con vua Trần Thái Tông, em ruột Thánh Tông, tức là cô của Nhân Tông, trước đã goá một đời chồng là Uy Văn vương Toại rồi. Vì thế Nhân Tông cảm thấy xót xa.

Bình Trọng biết ý, nói:

-       Nhà tôi mấy đời chịu ơn nước, chưa làm được gì nên công trạng. Tôi quyết

mang sức khuyển mã báo đền, dẫu chết cũng không có gì là ân hận. Xin bệ hạ đừng ngại.

Vua vẫn chưa quyết, hỏi các tướng:

-       Ngoài Kiến Đức hầu ra, không còn ai ở lại được nữa hay sao?

Các gia tướng của Hưng Đạo vương là Phạm Ngũ Lão, Yết kiêu, Giã Tượng, Nguyễn

Địa Lô đều xin ở lại. Trong số họ có Phạm Ngũ Lão là người cực khoẻ, nhưng vì mới quy phục, Hưng Đạo vương sợ có điều gì sơ xuất, không muốn để lại. Vương nói:

-       Bình Trọng dũng mãnh lại nhiều mưu trí, các ngươi không bằng được.

Rồi xin vua chuẩn y. Nhân Tông không biết làm thế nào, đành phải nghe theo. Vua

lại thấy Bình Trọng cưỡi con ngựa hơi gầy thì bảo:

-       Người võ tướng dẫu hùng mạnh đến đâu cũng phải nhờ sức ngựa.

Liền  sai người dắt một con ngựa trắng cực đẹp ra ban cho. Con tuấn mã bụng thon,

chân cao, đuôi dựng như bông lau, bờm tung bay trước gió, dáng có vẻ băng sông vượt núi. Bình Trọng biết đấy là con ngựa cực tốt, trong nước có một không hai, do vua Chiêm Thành cống mấy năm về trước cho vua Nhân Tông nhân dịp lên ngôi, nên không dám nhận.

Nhân Tông nói:

-       Tướng quân xung trận mới cần ngựa khoẻ, chứ trẫm đây ngựa nào mà chẳng

được. Không phải câu nệ đến thế.

Hưng Đạo vương cũng nói:

-       Bệ hạ đã ban cho, Kiến Đức hầu không nên từ chối.

Khi ấy Bình Trọng mới nhận. Theo hộ tống vua có một vạn quân thánh dực tinh nhuệ.

Vua truyền chia cho Bình Trọng một nửa. Bình Trọng điểm duyệt binh sĩ, ai không tình nguyện ở lại, những người ốm yếu hoặc nhà con một đều cho đi hộ tống vua cả. Quân số để lại chỉ còn khoảng  gần ba nghìn bộ binh và mấy trăm khinh kỵ. Dời phủ Thiên Trường, vua nhìn Bình Trọng mà không sao cầm được nước mắt.

            Nguyên phủ Thiên Trường chỉ là nơi cho các thái thượng hoàng về già ở. Thành quách thấp bé, hào nông toèn toẹt, bốn bề trống trải, không phải là chỗ có thể cố thủ được. Tiễn xa giá đi rồi, Bình Trọng dẫn mấy tên lính kỵ đi quan sát địa hình. Đà Mạc ở phía bắc phủ là một vùng đầm lầy hoang dã, cây cối um tùm, trên trời chim chóc từng đàn bay mỏi cánh, dưới nước cá và các loài thuỷ tộc cực nhiều, kênh lạch lại chằng chịt rất khó đi lại. Quân ít thì tốt nhất là tìm chỗ hiểm yếu ở ngang đường mà chặn giặc. Mùa đông nước cạn, cạnh khúc sông Thiên Mạc trơ lên một bãi cát rất rộng. Bình Trọng vào bãi, đi một vòng xem xét, thấy đây có thể chứa được hàng vạn người, phía đông sông nước mênh mông, phía tây là bùn lầy, lau sậy mọc như rừng,  phía nam và phía bắc có lối vào, nhưng đều rất rất chật hẹp. Đoán biết quân Nguyên từ Thăng Long đến Thiên Trường thể nào cũng qua đây, Bình Trọng bèn chọn làm nơi cản giặc.

            Linh tính là quân Nguyên sắp đến, sáng hôm sau khi gà rừng vừa gáy, Bình Trọng cho quân sĩ nấu nướng, ăn uống no nê, rồi kéo ra bãi Đà Mạc. Mỗi người đều mang theo cung tên, một ngọn giáo dài, một thanh gươm sắc, bộ binh còn phải khoác thêm lá chắn. Ra gần đến nơi, đã thấy tiếng ngựa hý.  Một toán giặc khoảng vài trăm tên chặn đường. Bình Trọng dẫn kỵ binh tiến lên, chém giết một hồi thì chúng bỏ chạy. Bình Trọng biết ý, không đuổi theo, kéo quân vào bãi bầy trận. Quả nhiên khoảng nửa giờ sau, kỵ binh của giặc kéo đến đông như kiến. Tướng đi đầu là Khoan Triệt.      

Đây lại kể đến tiếp việc tướng Nguyên là  Khoan Triệt dẫn kỵ binh đuổi theo hai vua Trần. Đến bãi Đà Mạc thì gặp quân An Nam cản đường. Thấy  hàng ngũ đối phương  chỉnh tề, đường vào bãi khó khăn, bèn dừng ngựa. Lại thấy bên kia trận một tướng cầm đại đao, giáp bạc ngựa trắng, hùng dũng đứng thì tự nhiên bủn rủn chân tay. Liền hỏi mấy tên lính An Nam dẫn đường:

-       Người kia là ai?

Chúng thưa:

-       Đấy là An Kiến hầu Trần Bình Trọng.

Khoan Triệt đã nghe tiếng tămTrần Bình Trọng ở trận núi Kỳ Cấp, lại càng sợ,  đứng

ngây như phỗng, miệng lẩm bẩm:

-       Quân tướng An Nam trông cũng oai nhiêm lắm, không thể coi thường được.

Có tên tỳ tướng đứng cạnh biết ý, nói:

-        Ngài là danh tướng của Thiên triều, quân mình lại đông, toàn kị binh thiện

chiến, còn địch thì chỉ có một rúm người chân đất, có gì là lo ngại?

Khoan Triệt nghe ra, cũng cảm thấy hoàn hồn, liền hô quân  bắn sang. Bình Trọng

vung đao gạt loạt tên đầu, rồi nẩy ra một kế, quay ngựa về phía sau trận, sai quân cầm lá chắn tiến lui, nhử cho giặc bắn thật nhiều, để lấy thêm tên. Khoan Triệt thấy bắn mãi chẳng ăn thua gì thì nóng máu, tay cầm gươm, tay cầm mộc, cưỡi ngựa[iii] đi đầu xông vào bãi. Quân Nguyên tuy đông, nhưng lối vào hẹp, chỉ đủ cho ba bốn ngựa sóng hàng ngang. Bên trận An Nam, giáo dài lao ra tua tủa, tên đạn từ hai bên cánh gà bắn ào ào. Quân Nguyên nhiều đứa ngã ngựa. Khoan Triệt không thể tiến được, đành phải chạy quay trở về. Lại thấy nước cạn, Triệt thúc quân ồ ạt lội qua bùn đánh sang. Nhưng người ngựa xuống bị xa lầy, nhiều tên chìm nghỉm. Bình Trọng lệnh cho quân từ trên bắn xuống. Giặc chết hại rất nhiều. Một số đứa sang được bãi đều bị quân An Nam đâm chết. Hai bên cầm cự nhau suốt ngày. Mãi đến lúc mặt trời khuất sau những rặng núi xa xa, Khoan Triệt mới chịu rút lui. Quân An Nam thì nghỉ lại ngoài bãi. Bình Trọng cắt người canh gác lối vào cẩn thận, rồi sai quân sĩ xả thịt những con ngựa bị giết ban ngày ra, đốt lửa nướng ăn.

Hôm sau trời vừa tảng sáng, quân Nguyên đã đến. Hai bên lại kịch chiến. Khoan Triệt hôm trước đánh suốt ngày không được thì bực bội, từ sáng sớm một mặt tự ra đánh, mặt khác đã sai tên tỳ tướng dẫn một toán quân tìm lối tắt vòng xuống phía nam. Dọc đường nhiều đứa chết đuối, hoặc làm mồi cho cá sấu, hoặc bị rắn độc cắn chết. Đến trưa thì chúng cũng tìm được đường và từ phía nam đánh vào bãi. Quân Nguyên bấy giờ ép hai ngả. Nhưng phía nam lối cũng hẻm, không dễ gì vào được. Trần Bình Trọng chia quân ra giữ, còn mình thì cưỡi ngựa đi lại đốc chiến. Hai bên đánh nhau mỗi lúc một dữ dội.  Quân An Nam cuối cùng bắn hết cả tên. Nhưng quân Nguyên cứ  vào được bãi bao nhiêu, bị giết bấy nhiêu,  chết hại không biết bao nhiêu mà kể. Đến tận tà chiều vẫn chưa phân thắng bại. Bình Trọng mừng thầm, thấy quân mình vẫn giữ vững được trận địa. Còn quân Nguyên thì rục rịch có vẻ muốn lui. Bỗng dưới bờ sông tiếng hò reo ầm ỹ, chiến thuyền của Lý Hằng tới nơi. Hằng tức khắc thúc quân từ dưới sông đánh ùa lên lên bãi. Khoan Triệt cũng nhân cơ hội, dẫn kỵ binh sấn vào. Cuộc chiến ác liệt lại bắt đầu từ đầu. Tên đạn bay vù vù, binh khí va chạm xoang xoảng, tiếng hò hét rợn người. Quân  An Nam tuy dũng cảm, nhưng ít người, lại chiến đấu ròng rã hai ngày liền, nên mệt mỏi, đuối sức, bắt đầu rối loạn. Đánh nhau được khoảng hơn một giờ nữa thì chết không còn một người nào. Chỉ có Trần Bình Trọng một mình múa đao cưỡi ngựa đi lại, đi đến đâu, giặc dãn ra đến đấy, máu thịt bắn tung toé. Lý Hằng có ý thán phục, ra lệnh cho thuộc hạ phải bắt sống cho kỳ được. Quân Nguyên giữ chặt lối ra. Bình Trọng không tài nào thoát nổi. Đánh mãi cuối cùng người ngựa đều kiệt sức, sa xuống bùn lầy, bị quân Nguyên bắt được. 

Đây lại kể xa giá hai vua Trần đương đi, bỗng có tin dữ từ Nghệ An báo ra, Trần Kiện mang ba vạn quân dâng vũ khí hàng giặc rồi. Toa Đô có Ô Mã Nhi từ biển đánh vào giúp sức, có Trần Kiện tiếp tay, nên thế mạnh đi đến đâu phá tan đến đấy. Thượng tướng Trần Quang Khải không sao đương nổi, phải rút ra phía ngoài. Vua đương lúc lo lắng thì lại có thám mã đến báo, quân sĩ ở Thiêng Trường đã chết sạch cả, Trần Bình Trọng bị giặc bắt. Hai vua và Hưng Đạo vương thương tiếc vô cùng. Nhân Tông kinh sợ, Hưng Đạo vương phải hết lời khuyên giải. Hôm sau xa giá lại nhận được tin Toa Đô đã sai người đưa Trần Kiện về Yên Kinh. Hưng Đạo vương nổi giận, sai ngay Nguyễn Địa Lô đem ba trăm quân kỵ đi đường tắt cấp tốc đuổi theo[iv].

Khi ấy vua đương buồn rầu ngồi trên thuyền với Hưng Đạo vương, bỗng nhiên giật mình nghĩ ra một điều, bảo vương:

-       Bình Trọng là mãnh tướng ở đời, văn võ song toàn, hiểu rõ quân tình của ta,

đường đất trong nước không chỗ nào là không biết. Nếu lại hàng giặc như Trần Kiện thì nguy hại cho ta lắm.

            Hưng Đạo Vương nói:

-       Xin bệ hạ đừng lo. Bình Trọng là bậc trung liệt, tôi chắc sẽ không hàng đâu.

Nhưng tình thế càng ngày càng trở nên nguy ngập. Nhiều kẻ hèn nhát, kể cả bọn

hoàng tộc như Trần Ích Tắc, Trần Văn Lộng, Trần Tú Viên… cũng ra hàng cả. Quân ở Thiên Trường thua, Bình Trọng bị bắt, thượng tướng Trần Quang Khải  thì mang quân đi xa, không còn ai cản được giặc. Chúng săn đuổi xa giá rất gấp. Bấy giờ vua tôi mỏi mệt. Hưng Đạo vương rước xa giá ra Quảng Yên, sai một tướng dẫn thuyền rồng mở cờ gióng trống ra cửa bể Ngọc Sơn làm nghi tình cho giặc. Còn thuyền vua thì đi theo đường sông Tam Chỉ. Quân giặc đuổi theo xa giá giả. Kỵ binh đuổi kịp, thấy có thuyền rồng dưới sông, bèn đứng trên bờ bắn xuống như mưa. Nhưng bắn chán chẳng có ai phản ứng gì thì biết là bị lừa, lại quay lại. Phía sau Lý Hằng chỉ huy thuỷ quân, đã có thám mã báo là các vua Trần đi theo đường khác, liền không chờ kỵ binh, cũng quay thuyền đuổi. Hưng Đạo vương đã đoán được tình thế, nên sai người cứ gióng thuyền theo sông Tam Chỉ mà đi, hai vua và gia quyến thì rước lên bờ, đi đường bộ. Nhưng xa giá đi rất là chậm chạp. Chỉ có thượng hoàng đi kiệu, vua và các võ tướng cưỡi ngựa, còn gia quyến đều phải đi bộ như quân sĩ cả. Nhiều người quen sống  nơi cung thất, nay đói rét, mệt mỏi, khổ sở không thể nào tưởng tượng được. Nhân Tông lo sợ vô cùng, lại hỏi Hưng Đạo vương phải làm thế nào?

            Vương nói:

            -    Đã đến nước này chỉ còn có hai cách, xin bệ hạ lựa chọn cho.

-    Đấy là những cách gì?

-    Một là nếu giặc đuổi kịp thì phải liều chết mà đánh, hai là Thoát Hoan cũng là người Hồ[v]… Đối với các chúa rợ Hồ ở phương bắc, người Trung Hoa lúc nguy khốn vẫn hay dùng kế mỹ nhân. Ta cũng có thể theo đó mà làm. Hoãn được giờ nào hay giờ ấy.

            Nhân Tông thở dài mà rằng:

-    Trẫm thấy cả hai cách đều không thể thi hành được. Quân tướng đã mỏi mệt lắm rồi, giặc đuổi kịp thì một người cũng chẳng thoát, nói gì đến đánh nhau. Còn kế mỹ nhân thì trừ công chúa An Tư ra, đây không có con gái đẹp. Trẫm lẽ nào lại mang công chúa mà dâng cho giặc, để lại tiếng xấu muôn đời. Xin Quốc công nghĩ cho mẹo khác.

Hưng Đạo Vương nói:

-    Ngày xưa hùng mạnh như Hán Cao Tổ còn phải gả cả con gái cho vua Phiên, vẫn được coi là mọi rợ, để đổi lấy sự an bình; Hán Nguyên Đế trong lúc cùng quẫn còn phải mang cả người thiếp yêu của mình là nàng Vương Chiêu Quân cống cho chúa Hung Nô, thì việc dâng công chúa An Tư có gì là xấu hổ? Vả lại thà đem dâng công chúa cho giặc, chả hơn là để chúng tự đến đây mà bắt lấy. Xin bệ hạ hãy coi giang sơn làm trọng, thử hỏi ý thượng hoàng và công chúa xem sao.

An Tư công chúa nguyên là con gái út của vua Trần Thái Tông, tức cô ruột của vua Nhân Tông, vì thế vẫn được gọi là Hoàng Cô. Lúc bấy giờ An Tư đã được ước gả cho Chiêu Thành vương Trần Thông rồi. Nghe Nhân Tông nói đến việc triều cống Thoát Hoan, công chúa tình nguyện sang trại giặc. Thượng hoàng cũng nhường kiệu cho. Công chúa khóc, sụp lạy hai vua mà rằng:

- Anh và bệ hạ đi đường hãy bảo trọng. Xã tắc lâm nguy, thần thiếp cũng chẳng dám tiếc tấm thân bỏ đi của mình làm gì. Chỉ xin bệ hạ một điều, sau này tìm gả cho Chiêu Thành vương một người con gái  xứng đáng trong họ thì thần thiếp có chết xuống chín suối cũng được yên lòng.

Nhân Tông không dám nhận lễ, vội xuống ngựa nâng công chúa dạy, ngậm ngùi nói:

- Sao Hoàng Cô lại thế?

Rồi sai cận thần của mình là Đào Kiện  theo hầu công chúa. Đào Kiện cũng là tay can đảm, túc kế đa mưu, làm giả một bức thư trá hàng của vua Trần mang theo người. Kiệu của công chúa đi nửa ngày đường thì gặp tiền đạo quân Nguyên do Khoan Triệt dẫn đầu. Đào Kiện  bảo Khoan Triệt là vua Trần chuẩn bị quay lại xin hàng, sợ quân tướng của „Thiên Triều” không tin, nên đưa công chúa  An Tư đến trước. Và Kiện xin được yết kiến chủ soái Thoát Hoan để trình hàng thư của vua Trần. Khoan Triệt nghe nói nửa tin nửa ngờ. Nhưng bấy giờ đã là tà chiều, chẳng biết các vua Trần ở đâu. Y thì mệt nhoài. Kể từ ngày ra khỏi Thăng Long, Triệt cùng bộ hạ không mấy lúc được dời lưng ngựa, thậm chí ăn ngủ cũng trên yên ngựa cả. Nghe Đào Kiện nói thì viện ngay cớ ấy, đưa công chúa An Tư và Đào Kiện lại trung quân cho Thoát Hoan định liệu.

Thoát Hoan tiếp được bức thư trá hàng của vua Trần, tự đắc bảo rằng:

- Nhân Tông đã như cá trên thớt, dẫu không lại đây quỳ gối đầu hàng, sớm muộn ta cũng tóm được. Bấy giờ có hối cũng chẳng kịp. - Lại sai người vén kiệu ra, dắt công chúa An Tư xuống. Thấy nàng kiều diễm như tiên giáng trần thì mừng lắm, nói rằng: - Con gái phương nam quả là xinh đẹp, thiên hạ không nơi nào bằng.

Rồi sai đưa vào trong trướng để hưởng lạc. Quân tướng thì cho nghỉ, chờ vua Trần đến hàng. Quân Nguyên ròng rã gần một tháng trời vượt sông lội suối, đêm ngày khốn khổ vì đuổi vua Trần, nên nhận lệnh, ai nấy đều lấy đó làm mừng. Đào Kiện lừa Thoát Hoan, biết y sẽ chẳng tha, bèn nửa đêm bỏ trốn. Hôm sau Thoát Hoan ngủ trưa, nhưng cận thần không dám đánh thức,  đến lúc mặt trời đứng bóng mới dạy. Bấy giờ vẫn không thấy vua Trần lại hàng. Hoan hỏi Đào Kiện đâu thì chẳng ai biết. Khi đó mới hiểu ra đấy là mưu kế, liền gầm thét lệnh cho quân truy kích tiếp. Lại còn sai quật mả Trần Bình Trọng, đã bị giết từ mấy hôm trước, lấy đầu ra bêu ở cửa trại cho hả giận! 

Nguyên khi Trần Bình Trọng bị bắt, Lý Hằng sai giải lại cho Thoát Hoan. Hoan thấy Bình Trọng người cao lớn, dáng đi hùng dũng, nét mặt đường hoàng, không có chút gì là sợ sệt thì biết không phải là tướng thường. Nên muốn khuyên dỗ về hàng. Liền tiếp đãi rất tử tế, mời ăn uống hẳn hoi. Nhưng Bình Trọng không ăn. Hỏi đến việc nước, Bình Trọng cũng không nói. Sau Hoan lại hỏi:

-        Tướng quân có muốn làm vương đất Bắc không?

Bình Trọng trả lời:

-       Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Nay ta đã bị bắt

thì chỉ có chết là cùng, can gì phải hỏi lôi thôi.

            Thoát Hoan không thuyết phục nổi Trần Bình Trọng hàng, nhưng có ý mến phục,  không lỡ giết, cho giải theo quân. Được mấy hôm lại sợ Bình Trọng trốn mất, mới sai mang ra chém. Rồi ra lệnh cho mai táng chôn cất tử tế theo tục lệ Trung Hoa[vi], dùng lễ nghi dành cho thượng tướng quân. Nhưng đến lúc y điên loạn thì lại sai quật mả lên. Bấy giờ là tháng hai năm ất dậu (1285), Trần Bình Trọng mới có hai mươi sáu tuổi.

Đây lại nói đến xa giá hai vua Trần đi bộ suốt đêm đến làng Thuỷ Chú, rồi  xuống thuyền ra sông Nam Triệu. Ra đến cửa biển Bạch Đằng có thám mã đến báo, Trần Bình Trọng đã bị hành hình rồi, giặc treo đầu Kiến Đức hầu trước cửa trại. Thánh Tông thượng hoàng,  vua Nhân Tông, Hưng Đạo vương và các tướng có mặt đều oà lên khóc cả. Nhân Tông sai cắm thuyền, lên bãi cát lập đàn làm lễ chiêu hồn cho Bình Trọng. Hưng Đạo vương hết sức can ngăn:

-   Giặc đuổi đến nơi rồi, xin bệ hạ đừng lên bờ. Việc ấy làm sau cũng được.

-   Trẫm có những bề tôi trung nghĩa như Bình Trọng thì vận nước nhà cũng chưa thể hết được. Ngắn dài có số, trăm sự tại trời. Trời đã cho trẫm sống thì giặc làm gì được -Nhân Tông nói  và nhất định không nghe.

Hưng Đạo vương không làm thế nào được, đành cứ để gia quyến xuống dưới thuyền. Tầu thuyền chực sẵn chờ lệnh nhổ neo. Sai Yết Kiêu, Dã Tượng dàn quân án ngữ đường xuống bãi biển, còn mình cùng Phạm Ngũ Lão mặc giáp, đeo gươm đứng hầu vua. Nhân Tông đốt hương khấn vái Bình Trọng, đổi hiệu cho làm Bảo Nhĩa hầu để tôn vinh lòng trung liệt. Vua khóc lóc rất là thảm thiết, ai nghe thấy cũng phải động lòng. Hưng Đạo vương phải dục hai ba lần, Nhân Tông mới chịu xuống tầu. Yết Kiêu, Dã Tượng cũng đốc thúc quân sĩ lục tục xuống theo. Các tầu thuyền được lệnh lập tức nhổ neo. Vừa ra biển được một đoạn, đã thấy kỵ binh Mông Cổ chí choé trên bờ. Tầu thuyền ra khơi lại thuận gió, căng buồm lên cả một lượt. Thuỷ quân của giặc sau cũng đuổi tới, nhưng vì toàn thuyền nhẹ, nên không dám ra bể. Hưng Đạo vương hộ tống hai vua vượt biển Đại Bàng vào được tỉnh Thanh hoá an toàn.

Vận nước Nam và nhà Trần quả nhiên vẫn chưa hết. Tháng tư năm ất dậu (1285), quan quân bắt đầu phản công. Trận Hàm Tử Quan, Trần Nhật Duật thắng quân Toa Đô; trận Trương Dương Độ, Trần Quang Khải khôi phục được thành Thăng Long; Trận Tây Kết Hưng Đại vương chém Toa Đô; trận Vạn kiếp, thoát Hoán phải chui vào ống đồng, để lên xe,  bắt quân kéo chạy về Tầu. Đến mùa xuân tháng hai năm đinh hợi (1288) Nguyên chủ lại sai Thoát Hoan mang ba mươi vạn quân sang đánh báo thù, nhưng cũng bị thua. Tháng tư năm kỷ sỉu (1289)  vua Nhân Tông định công phạt tội. Nhân Tông không nhắc đến công chúa An Tư, có thể vì nàng vô sự[vii] và cũng có thể việc dùng kế mỹ nhân xét ra chẳng hay ho gì. Nhưng vua nhớ đến Trần Bình Trọng, truy tặng là Bảo nghĩa vương. Con cháu Bình Trọng nối đời làm thượng tướng. Đến cuối thời Trần, quân Chiêm Thành mấy lần xâm phạm Thăng Long. Cháu bốn đời của ngài là Trần Khát Trân mang quân đi cản giặc, giết được vua Chiêm  là Chế Bồng Nga ở sông Cái. Bấy giờ chúng mới chịu lui. Nhưng đấy là những  việc sau này, sẽ không kể ở đây nữa.

            Gần bẩy trăm năm sau có nhà thơ khen Bình Trọng rằng:

                                               Giỏi thay Trần Bình Trọng

                                               Dòng dõi Lê Đại Hành.

                                               Đánh giặc dư tài mạnh,

                                               Thờ vua một tiếng trung.

Băc Vương sống mà nhục,

                                               Nam quỷ thác cũng vinh.

                                               Cứng cỏi lòng trung nghĩa

                                               Ngàn thu tỏ đại danh.[viii]

            Lại bẩy trăm năm nữa có một nhà văn qua bãi Đà Mạc ngày xưa, đi đường đói quá vào chùa xin ăn. Nhà chùa cho một bát cơm chay. Ăn xong bỗng để ý thấy trong chùa có thờ Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng. Liền cao hứng lấy bút viết lên tường một câu đại khái như sau: „Hỡi khách đi đường, hãy về nói với nước Việt rằng, chúng tôi tất cả đã hy sinh để bảo vệ phong tục của xứ sở”. Câu ấy là lược theo lời ca ngợi khắc trên mộ Leonidas, người anh hùng xứ Sparta năm 480 tr. c. ng. đã cùng ba trăm hiệp sĩ bỏ mình, chặn đứng hùng binh của Ba Tư tại đường hẻm Termopil, giúp cho liên quân Hy Lạp có thời gian rút lui về phía nam, bảo toàn lực lượng để dành chiến thắng cuối cùng.

Trần Bình Trọng cũng xứng đáng là tấm gương soi trời bể, không kém gì Leonidas, chỉ vì sinh ra ở nước Nam hẻo lánh, nên thế giới chẳng mấy ai biết đến mà thôi.  


Trương Đình Toe


[i]   Hốt Tất Liệt là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn.

[ii]  Theo một số tài liệu hiện đại, cuộc truy kích hai vua Trần có Ô Mã Nhi tham ra. Đây viết  theo „An Nam sử lược” của Trần Trọng Kim, trong thời gian này Ô Mã Nhi đã vào Nhệ An giúp Toa Đô rồi.

[iii]   Kỵ binh Mông Cổ giỏi cưỡi ngựa, lúc lâm trận điều khiển ngựa bằng chân chứ không cần dùng tay giật dây cương.

[iv]  Trần Kiện định sang Tầu, đến đất Lạng Sơn bị Nguyễn Địa Lô và các thổ hào địa phương đuổi kịp, bắn chết. Thủ hạ của Kiện là Lê Tắc ôm xác chủ lên ngựa chạy, đến gò Khâu Ôn mai táng ở đấy, rồi trốn sang Tầu. Lê Tắc sau có làm một pho sử tựa đề là „An Nam chí lược”. Nay nguyên bản sách ấy vẫn được giữ ở bên Tầu và bên Nhật Bản.

[v] Thời xưa người Tầu gọi chung tất cả các bộ lạc ở phía bắc Vạn Lý Trường Thành là rợ Hồ, cũng như gọi các bộ tộc phía nam sông Dương Tử (trong đó có An Nam ta) là Man Di.

[vi]  Theo tục Trung Hoa, vì người Mông Cổ xưa kia chết thì không chôn, mà quẳng xác trên thảo nguyên cho cầm thú ăn thịt.

[vii]  Trong „An Nam chí lược” của Lê Tắc có một câu: „Thái tử (Thoát Hoan) lấy người con gái họ Trần, sinh được hai con”. Có thể „người con gái họ Trần” ấy chính là An Tư công chúa!

[viii]  Bài thơ ấy là của tiên sinh Phan Kế Bính.

 

(Bài đã đăng ở báo giấy Quê Việt số 99 tháng 04-2009)

Sửa lần cuối 2016-03-11 13:51:55

Bình luận

Bình luận qua Facebook