Ảnh minh họa (internet)
Làng Phẹt một dạo cứ mất trộm liên tục, nào gà, nào vịt, soong, nồi, cuốc, thuổng… Một đêm hè tĩnh mịch bỗng có tiếng đàn bà kêu ầm ỹ:
- Ối giời ôi! Trộm, trộm! Nó bắt hết ngỗng nhà tôi rồi!
Thế là người la, chó sủa, tiếng chân chạy huỳnh huỵch, ánh đèn pin lấp loáng. Một
thằng
trộm bị đuổi gấp lao vào bụi rậm, thằng khác nhảy
xuống ao. Cả hai đều bị bắt sống. Chúng không phải
là người làng này.
- Đánh chết bỏ mẹ chúng nó đi!
– Dân làng hô hán.
Thế là trận đòn nhừ tử giáng
xuống đầu quân ăn cắp. Phen này chúng nó có sống cũng
thành tật. Đánh chán rồi, người ta giam chúng vào kho
của hợp tác xã và đe:
- Chúng mày mà ỉa đái ra đấy
thì sáng mai chỉ có chết!
Sáng hôm sau dân làng giải
hai thằng trộm xuống cho công an xã. Từ xã chúng bị
giải lên huyện. Dân làng còn trao cho công an danh sách
những người có công bắt trộm, đứng đầu là hai thiếu
niên anh hùng tuổi chừng mười sáu mười bẩy.
Hôm
sau nữa có hai anh công an từ huyện về xã điều tra thêm
chi tiết sự vụ. Các anh cho gọi hai thiếu niên đứng
đầu danh sánh bắt trộm là thằng Tuấn và thằng Quang
để lập biên bản. Hai đứa thích lắm. Có công thì thể
nào cũng được thưởng, tục lệ xưa nay vẫn thế. Chúng
tường thuật tỷ mỉ cuộc đuổi bắt, thỉnh thoảng lại
tô vẽ thêm vào để tăng vai trò của mình. Cuối cùng
anh công an hỏi:
- Các em có đánh chúng nó không?
-
Phải đánh thì lần sau chúng nó mớí chừa.
- Bây giờ
các em ký vào biên bản.
Hai thiếu niên hý hửng, nhưng
vừa ký xong, anh công an trở mặt:
- Chúng mày đã bị
bắt vì gây ra án mạng chết người!
- Án mạng nào? -
Thằng Quang trố mắt.
- Ai chết? – Thằng Tuấn ngơ
ngác.
- Một thằng trộm bị chúng mày đánh đã chết
ở trên đồn - Anh công an trả lời. Và hai anh đứng dậy,
mỗi người rút ra một cái còng số tám cùm tay hai “ông
kễnh” lại, khoá vào chấn song cửa sổ, rồi sang phòng
bên trao đổi với cán bộ xã.
Tin ấy chẳng mấy chốc
đã bay về làng. Bà cụ Hồi đã tám mươi tuổi, nghe tin
chắt đích tôn bị bắt thì lập tức sai người chở
xuống uỷ ban. Đến nơi cụ nhệu nhạo van nài hai nhà
chức trách:
- Tôi đây thời Pháp thuộc nuôi du kích
trong nhà. Con trai tôi, tức ông nội cháu chẳng may hy sinh
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nhà tôi đời
đời theo cách mạng. Bố cháu chẳng may mất sớm, cũng
vì việc nước. Cháu nó còn bé dại, không có người dạy
bảo. Các ông hãy thương tình tha cho cháu.
- Án mạng
chết người không phải là việc nhỏ. - Anh công an giải
thích - Nhiệm vụ của chúng tôi là triệt để thi hành
pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Và hai thằng bắt
trộm cũng chung số phận với hai thằng trộm, bị giải
lên huyện. Từ huyện người ta lại giải lên tỉnh. Làng
xóm xôn xao, chẳng ai nói đến chuyện gì khác. Nhưng đau
khổ nhất vẫn là bà cụ Hồi. Hai hàng nước mắt như
mưa, cụ ca thán cho số phận gia đình và thằng chắt bất
hạnh:
- Nhà tôi thật là vô phúc. Gia đình tôi chỉ có
một giọt máu này thôi mà bây giờ khổ thế. Tôi sống
làm sao được? Thật là Trời, Phật bắt tội…
Ông
Sùng hàng xóm nhà cụ an ủi:
- Thưa cụ, xin cụ đừng
lo. Chúng nó chưa đến tuổi thành niên, vả lại cũng
chẳng có chứng cớ gì là chúng nó đánh chết người.
-
Nhưng mà ký rồi ông ạ.
- Ký rồi cũng không sợ! -
Ông Sùng khảng khái – Các chắt là trẻ con, người ta
doạ hay đánh thì chúng nó phải ký. – Nhưng những lời
nói ân cần của ông Sùng không mảy may làm cho bà cụ
bớt phiền.
Hôm sau nữa lại có hai công an từ tỉnh
đi xe co-măng-ca về để điều tra thêm về vụ đánh chết
người. Làng xóm nghe tin lại rạo rực, hô hào nhau xuống
xã kiến nghị với quan tỉnh.
*****
Phải biết
rằng dân làng Phẹt xưa nay có tiếng là cứng cổ. Hai
năm về trước hợp tác xã chia lại ruộng đất cho dân.
Chia rồi vẫn còn thừa khoảng ba mẫu. Ban quản trị đem
bán cho công ty đóng gạch “Tiến lên”. Một hôm ở nhà
chị Cu Bẳn có cậu em họ là sinh viên Bách khoa mới về
nghỉ hè, sang thăm. Chị Cu mang việc chia đất đai ra
bàn:
- Những thửa hình chữ nhật, họ cứ cộng các
cạnh đối diện, chia đôi, rồi nhân với nhau.
Nhà
chị Cu Bẳn có thằng con mới học lớp bốn, gọi là
thằng Mẫn. Cậu em chưa kịp nói gì thì thằng Mẫn nghe
thấy, nhanh nhảu bảo:
- Hình chữ nhật thì các cạnh
đối diện bằng nhau, không phải cộng lại mà chia đôi.
Những thửa ấy không phải hình chữ nhật.
- Thế nó
là cái hình gì? – Chị Cu gắt.
- Đấy chỉ là những
thửa ruộng hình tứ giác bình thường. Tính như vậy bao
giờ cũng ra con số lớn hơn diện tích thật. Có nghĩa là
nhà mình bị thiệt.
Thằng Mẫn thao thao giải thích,
thế là nó bị mẹ mắng:
- Trẻ con biết gì mà khoẻ
nói leo? Ra ngoài kia để tao nói chuyện với cậu.
- Chị
mắng oan cháu. – Cậu em nói.
- Cậu bảo cái gì?
-
Cháu nó nói có lý đấy, chị ạ. Tính như vậy thì đúng
là thiệt cho mình.
Chị cu Bẳn ngồi ngẩn người ra
một lúc rồi nói:
- À, té ra họ coi nhân dân chúng tôi
là lũ gà mờ, lừa lấy ruộng đất mà bán. Bán rồi
không biết tiền biến đi đâu? Công quỹ của hợp tác
xã không bao giờ có lấy một xu. Người nhiều, đất thì
ít, thế mà lại còn mang bán cho thiên hạ thì lấy gì mà
cầy cấy? Người ta chỉ được cái mồm nói hươu nói
vượn. Xem ra cũng chẳng có kẻ nào vì dân vì nước.
Rồi
chị Cu mang chuyện ấy nói với hàng xóm, hàng xóm lại
nói với hàng xóm… Làng nước vì thế sôi lên sùng sục.
Cuối cùng dân chúng kéo nhau ra chỗ lò gạch “Tiến
lên”, gọi ông giám đốc ra tuyên bố tối hậu thư:
-
Không dọn mau mọi thứ đi thì chúng bố đốt hết.
-
Nhưng chúng tôi đã ký hiệp đồng với chính quyền địa
phương rồi.
- Không phải “hiệp đồng” mà là “hợp
đồng”. Nhưng chính quyền cũng không có quyền. Mảnh
đất này là do cha ông chúng tôi để lại, xương chất
thành núi, máu chẩy thành sông mới giữ được. Không ai
được quyền xâm phạm.
Rồi để cảnh cáo ông giám
đốc công ty gạch “Tiến lên”, mấy trăm viên chưa
nung bay xuống chuôm như châu chấu. Sáng hôm sau ông giám
đốc cùng quân quyền cuốn gói chuồn thẳng. Dân làng
đồn là ông ấy chưa trả tiền cho hợp tác xã mà chỉ
cúng cho các cán bộ mỗi người một ít.
*****
Nhưng
tình hình ở lò gạch hôm ấy chưa căng thẳng bằng một
phần mười hôm nay.
- Đúng rồi – dân làng bàn tán.
– Phải xuống xã kiến nghị với công an tỉnh. Không
thể để người ta bắt con cháu mình một cách vô lý như
thế được.
Cô Thêm đương tát nước ở cánh đồng
Thổ cũng có người ra gọi:
- Nhà bà cũng phải về mà
đi kiến nghị. Không thì đuổi ra khỏi làng.
- Ừ thì
đi. – Cô Thêm nói rồi gác gầu, lên bờ, rửa chân và
đủng đỉnh về làng.
Dân chúng tập chung đông nghịt
dưới gốc bàng ở sân đình. Đàn ông, đàn bà, con trẻ,
người đi bộ, kẻ xe đạp, người xe máy Trung Quốc, kẻ
máy cầy công nông… Đến cả cái ông Lộc thương binh
cụt một chân từ thời chống Mỹ cũng đòi đi. Ông mặc
quân phục, ngực đeo mấy cái huy chương. Gã thanh niên
cầm lái xe công nông trông thấy, gọi:
- Ông Lộc đi
với cháu.
Ông Lộc ném đôi nạng vào moóc rồi tự
trèo lên, chẳng khiến ai giúp, miệng lẩm bẩm:
- Mỹ
ông còn chẳng sợ nữa là mấy thằng sâu mọt.
Một
người đàn ông lớn tiếng:
- Nào, có còn chờ ai nữa
không? Ta đi thôi!
Rồi còi bấm inh ỏi. Đoàn người
dài dằng dặc, lũ lượt dời khỏi làng. Xuống đến xã,
họ vây kín toà nhà uỷ ban nhân dân, nơi hai công an tỉnh
đương có mặt. Dân chúng bảo nhau:
- Phải cử đại
diện vào đàm phán.
- Ông Mô ăn nói được, vào đi.
-
Ừ thì vào. Sợ gì chúng nó. Ông có đi tù cũng được.
– Cái ông được gọi là Mô lên tiếng.
Nguyên ông
Mô là con trai cả cụ Tê. Ông chạc năm mươi tuổi, mặt
đen, người cao lớn. Xưa nay vẫn có tiếng là keo kiệt.
Có lần con bé hàng xóm sang mượn cái cuốc. Ông vào nhà
lấy cuốc ra, giơ lên trước mặt nó, bảo: “Đây là
cái cuốc, lưỡi nó bằng sắt, cán nó bằng tre. Nhà mày
mua lấy mà dùng”. Rồi lại cầm cuốc vào nhà cất đi.
Mọi người ai cũng cười ông. Thế nhưng đến khi họp
hành, ông nói đâu ra đấy. Khoản này ai cũng phục. Hôm
nay đi kiến nghị, ông mặc sơ mi trắng, cho vào trong
quần, thắt lưng da hẳn hoi, nhưng lại đi chân đất. Vợ
ông phàn nàn:
- Nhà mới mua đôi giầy đen bóng nhoáng
mà xuống xã cũng không đeo vào.
- Người ta nói chuyện
với nhau bằng mồm chứ ai nói chuyện bằng chân mà cần
giầy? – Ông Mô bảo vậy rồi rẽ đám đông, bước
vào.
Trong trụ sở uỷ ban, anh sĩ quan công an ngồi sau
bàn giấy, bên phải là anh công an thứ hai, bên trái ông
Chủ tịch xã.
- Chào các anh. - Ông Mô lên tiếng.
-
Vâng chào ông. – Anh công an đáp lời, rồi ra dáng như
chủ nhà chỉ cái ghế trước bàn giấy, nói tiếp: - Mời
ông ngồi.
- Không dám. – Ông Mô vẫn đướng và vào
thẳng vấn đề - Chúng tôi đại diện cho dân làng Phẹt
đề nghị các anh thả con cháu chúng tôi ra.
- Đây
không phải là việc mất gà mất vịt nữa mà là việc
án mạng chết người.- Anh công an trả lời.
- Các cháu
còn nhỏ, hàng ngày vẫn ngoan ngoãn, lại có công bắt
trộm. Không có lý do gì để giam giữ chúng nó cả.
-
Nhưng phạm tội đánh chết người.
Ông Mô nghe anh công
an nói vậy điên ruột, quát:
- Anh đừng có nói láo!
Anh bảo ai đánh chết người? Chúng tôi giao cho các anh
hai thằng trộm vẫn còn khoẻ mạnh. Sau một ngày một
đêm các anh mới về bảo là có thằng chết. Chính các
anh đánh chết nó!
- Tôi cảnh cáo ông! – Anh công an
cũng to tiếng – Vu cáo mà không có chứng cớ là vi phạm
pháp luật.
- Đã gọi là vu cáo thì làm gì có chứng
cớ. Thế các anh vu cáo cho con cháu chúng tôi đánh chết
người thì có chứng cớ hay không?
Rồi hai bên tiếp
tục cãi vã nhau.
Bên ngoài uỷ ban, dân chúng kẻ đứng
người ngồi, cũng đang tranh luận:
- Phải gọi điện
cho phóng viên báo “Vì an ninh tổ quốc”.
- Không phải
báo “Vì an ninh tổ quốc” mà là “An ninh quốc tế”.
-
“An ninh quốc tế”? Nghe nó cứ ngang phè phè. An ninh
nước mình chưa xong, gà vịt cứ mất liên tục mà lại
đòi an ninh quốc tế.
- Bây giờ tự do ngôn luận, ai
người ta đăng những chuyện nhảm nhí?
- Mà có đăng
cũng chẳng dại gì gọi điện cho chúng nó. Nhà văn nói
láo, nhà báo nói phét. Nó lại viết làng mình bạo loạn
thì bỏ mẹ.
Đương lúc ấy thì tiếng ông Mô vang từ
uỷ ban ra oang oang như lệnh vỡ:
- Anh lại bảo chúng
tôi chống lại Đảng và Nhà nước! Chúng tôi ăn gì mà
chúng tôi chống lại Đảng và nhà nước?Mấy trăm con
người tức thì đứng dậy cả một lượt, bắt đầu
huyên láo:
- Phải thả con cháu chúng tao ra!
- Công
lý ở đâu?
- Đả đảo!
- Nhưng mà đả đảo ai hở
bà?
Ầm
ầm như vỡ chợ, chỉ thấy kẻ nói mà không có người
nghe. Mấy mụ đàn bà nổi tiếng là đanh đá thường
ngày vẫn cãi chửi nhau lộn bậy, hôm nay có đất để
dụng võ. Hai anh công an thấy nguy, liền cắp cặp ra cửa.
Anh sĩ quan lên tiếng:
- Xin bà con hãy bình tĩnh cho
chúng tôi thưa chuyện.
-
Trật tự! - Dân làng bảo nhau.
- Nói đi. Không lọt tai
ta sẽ thử gươm! – Thằng nhãi con lắp bắp bị mẹ nó
cho ngay một cái bợp tai.
Anh công an nói:
- Hiện nay
có án mạng chết người. Nhiệm vụ của chúng tôi là
làm sáng tỏ sự việc theo đúng pháp luật. Nếu các em
không có lỗi thì một giờ chúng tôi cũng không có quyền
giữ. Và bây giờ chúng tôi phải về tỉnh để điều
tra thêm. Xin tạm biệt bà con. – Nói rồi các nhà chức
trách định rẽ đám đông để rút lui.
- Không cho
chúng nó thoát! - Đám đông lại ồn ào.
Mấy mụ đàn
bà hăng máu xông vào đẩy hai anh công an ngã ngồi phệt
xuống. Người đứng vòng trong vòng ngoài chật ních, hô
hán:
- Thả con cháu chúng tao ra thì chúng tao tha.
-
Chúng mày có giỏi bắn chết hết chúng ông đi!
- Chúng
mày quen đánh người. Đánh chết rồi lại đổ cho làng
ông. Ông ngày trước cũng bị chúng mày đánh. Có đến
chết cũng không hết căm thù... – Người này chửi bới
om sòm, văng tục không thiếu một từ gì. Mọi người
trông ra thì là anh Võ Dát.
Anh
Võ chạc hai nhăm tuổi, mặt mày cổ quái dữ tợn, nhưng
thật ra anh hiền lành, ít nói, sức trói gà không nổi.
Vid thế mới gọi là anh Võ Dát. Thế mà hôm nay chửi
hăng thế. Cậy đông người chăng?
****
Lại nói
đến chuyện anh Võ. Một lần chú Văn hàng xóm mất
chiết xe đạp, liền đi báo công an. Các chiến sĩ công
an nghi anh Võ ăn cắp mới điệu lên huyện. Lúc đầu anh
còn chối, sau bị đánh nhiều quá, đành phải thú nhận.
Nhưng khi được hỏi xe đạp để đâu thì anh lại dại,
cứ nói dối quanh, thế là lại bị đánh tiếp. Anh bị
công an huyện giam cầm, hành hạ ba ngày thì tình cờ chúa
Văn tìm được xe đạp. Xe bị thằng ôn con làng bên ăn
cắp. Thế là anh Võ may mắn được tha bổng, về nhà ốm
sáu tháng. Dân làng lại có chuyện để bàn.
Ba người
đàn ông ngồi quán bác Bường, hút thuốc lào nhả khói
um ti, bàn về đề tài anh Võ:
- Ở bên Mỹ mà bị đánh
oan thế thì được thưởng nhiều tiền lắm.
- Ở Mỹ
công an nó có đánh người thế đâu mà được thưởng.
-
Bên Mỹ người ta không gọi là công an, mà gọi là cảnh
sát.
- Ừ thì nó cũng chỉ khác nhau ở cái danh từ.
-
Các ông biết mẹ gì mà khoẻ nói. Ra đến ngã tư Vọng
thì lạc, thế mà còn kể những chuyện ở tận bên nước
Mỹ. Chỉ được cái ếch ngồi đáy giếng.
- Khổ thân
Võ Dát. Nhưng mà thực ra công an cũng phải đánh thế thì
trộm cướp nó mới thú tội.
- Tât nhiên. Đánh thế
thì không ăn cướp cũng phải nhận tội. Ngày xưa anh
hùng như Võ Tòng của nước Tầu, một mình đả hổ trên
núi Cảnh Dương, thế mà lúc ở nhà thằng Trương Đô
Giám nó vu cho ăn cắp, trói gô cổ lại, đánh cho phải
nhận. Võ Dát làng mình làm gì địch nổi Võ Tòng mà chả
nhận là ăn cắp.
- Chỉ có mấy ông du kích làng mình
ngày xưa là gan. Tây nó tra tấn đến chết cũng không
chịu khai.
- Ông có trông thấy không mà kể?
- Thì
người ta vẫn nói thế.
- Nói khoác.
- Thì cái chuyện
Võ Tòng của ông cũng là khoác.
- Tao mà bị bắt thì
tao cứ khai thốc khai tháo ra, không có cũng khai, chẳng
dại gì để cho nó đánh.
Đương chuyện trò râm ran,
bỗng có tiếng đàn bà lanh lảnh:
- Cái ông phải gió
kia có về ngay không? Nhà bao nhiêu việc bỏ đấy, ra đây
mà mua chuyện.
- Có im cái mồm đi không? – Anh chàng
được gọi là Phải Gió bực bội – Làm gì mà ầm cả
làng nước lên thế? Ông thì…
Hai anh còn lại thích
trí cười ha hả:
- Ông thì làm gì? Tối về nó lại
không cho làm gì thì chết!
- Tuổi lợn mà lại đi lấy
vợ cầm tinh con mãnh hổ.
- Mà cái loại mãnh hổ này
nó kinh lắm, ông ạ. Đến Võ Tòng cũng chịu chết chứ
chưa nói là người thường.
Song đấy là chuyện cũ,
sẽ không kể ở đây nữa.
*****
Hôm nay anh Võ
Dát khác hẳn ngày thường, chửi bới ầm ỹ. Vợ anh
phát hoảng, nhưng không tài nào gàn được. Chị vốn là
một người vợ hiền. Ngày anh được công an tha, ròng rã
suốt sáu tháng trời, chị cơm cháo thuốc thang, nâng anh
lên đặt anh xuống, vậy hơn ai hết, chị hiểu đâu là
quyền hạn của những người thừa hành công vụ. Nhưng
chị càng gàn, anh càng chửi tợn, Cuối cùng chị đành
chịu, nhệu nhạo khóc:
- Chồng với chả con. Chả lẽ
lại mang xi gắn cái mồm ấy lại.
Anh Võ chẳng cho
những lời của vợ vào đâu, vẫn tiếp tục hung hăng:
-
Quân khốn nạn. Chúng mày chỉ quen cái thói hà hiếp nhân
dân. Ông có đến chết cũng không hết căm thù…
Dân
làng cũng phụ hoạ theo anh. Nhưng chửi lắm mỏi mồm. Mà
cũng không thể chơi cái trò trẻ con ấy mãi được. Ông
Mô đã ra rồi, lại vào một lần nữa làm phát ngôn viên
cho làng Phẹt. Ông bảo các chiến sĩ Công an Nhân dân vũ
trang:
- Các anh hãy điện về tỉnh bảo thả con cháu
chúng tôi ra. Chúng nó về đến đây, chúng tôi tha các
anh ngay lập tức. Nhược bằng chúng nó còn bị giam cầm
giờ phút nào thì chúng tôi có chết cũng không để các
anh đi được.
- Chúng tôi không có quyền hạn như thế.
– Anh công an trả lời.
- Ai có quyền hạn, chúng tôi
không cần biết. – Ông Mô kết luận và quay gót.
Ông
chủ tịch xã bấy giờ để mặc hai quan tỉnh, lách qua
đám đông, biến mất. Hai nhà chức trách cứ mỗi lần
đi ra lại bị đẩy vào. Đến gần trưa, anh sĩ quan ra
bảo:
- Xin bà con cho tôi đi giải.
- Đi giải để
chạy hả? – Có người quát.
- Sao không đái mẹ nó
vào cặp tài liệu? Không làm gì bằng những thứ tài
liệu đểu ấy. – Rồi bà con quyết không cho các nhà
chức trách ra.
Xung quanh uỷ ban kẻ đứng người ngồi.
Họ chia nhau đi ăn trưa, nhưng vòng vây vẫn siết chặt.
Cán bộ xã đưa vào cho các quan tỉnh hộp sữa và gói
bánh ngọt. Dân chúng bàn nhau:
- Không cho chúng nó ăn
uống gì cả.
- Uống lắm vào rồi lại đòi đi đái.
-
Mặt to bằng cái thớt, béo múp đầu chạch thế kia,
chứng tỏ ăn không của thiên hạ nhiều rồi. Bây giờ
không phải ăn gì nữa. – Và nhất quyết không cho đưa
đồ tiếp tế vào.
Hai nhà chức trách vừa đói, vừa
khát, vừa sợ, mặt xanh rờn như hai tầu lá. Quá trưa
sang chiều, anh sĩ quan bước ra nói:
- Thưa bà con. Chúng
tôi đã điện về tỉnh. Các đồng chí trên tỉnh thông
báo là các em đã được thả. Vậy xin bà con cho chúng
tôi về.
Dân chúng không tin:
- Sao buổi sáng bảo là
không có quyền?
- Con cháu chúng tôi chưa về đến đây
thì các anh không được đi đâu cả.
- Đừng có mắc
mưu
chúng nó.
Anh công an đành phải phải quay vào. Và quả
như dân làng dự đoán, mặt trời đã ngả non tây, nhưng
nào thấy hai thiếu niên làng Phẹt được tha. Bà con càng
căm tức, cử người gác đêm. Mụ đàn bà dặn dò đám
thanh niên:
- Biết ngay là chúng nó lập mưu kế lừa
mình. Đã thế bọn mày làm mỗi thằng một cái gậy tre
đực. Chúng nó chạy cứ đánh gẫy cẳng cho tao. Đêm hôm
không biết ai vào mới ai đâu mà sợ.
Mọi việc đã
sắp xếp đâu vào đấy. Người già con trẻ bắt đầu
lục tục ra về. Những người đi đầu chưa được bao
xa, bỗng có tiếng hô lớn:
- Dân làng ơi! Thằng Tuấn
thằng Quang về kia rồi!
Mọi người ngạc nhiên, quay
đầu nhìn lại thì đúng thế thật. Tiếng hò reo bỗng
nổi lên dậy đất. Bà con chiến thắng, sung sướng kéo
quân trở về, chẳng thèm đếm xỉa gì đến hai anh công
an hình sự.
*****
Thế là rõ ràng có án mạng chết người mà hoà cả làng. Sự việc xảy ra đã mấy năm rồi nhưng không có phiên toà nào mở ra để xử. Chẳng biết ai đánh chết thằng trộm. Chỉ gần xa vẫn còn vang vọng lời đồn nhảm: “Thằng nào vào làng ấy chỉ có mất xác”! Từ dạo đó làng Phẹt chẳng có trộm cắp gì cả, công an cũng không thấy lảng vảng về.
Warszawa, 6-2017
Trương Đình Toe
Bình luận