Trong
Thiền học ta thường gặp những câu nói nghe có vẻ lạ
tai, thậm chí hình như ngô nghê đến vô lý. Lúc đó con
người thường hay đưa ra những kiến thức đã có sẵn
của mình để so sánh, phản bác. Trong Phật giáo gọi
thái độ đó là chấp trước. Ví dụ,
khi ta nhìn thấy biểu thức 1 + 1 = 10 , sẽ có rất nhiều
người trong chúng ta cho là sai, 100% là sai và cười chê
sao mà dốt thế, bởi họ đã vội vàng nhớ ngay đến
kiến thức Số học đã học từ lớp Một: ( 1 + 1 = 2 )
để phán xét. Những người như vậy đã đánh mất đi
một cơ hội để học hỏi và cầu tiến. Thực ra, đấy
là một cách biểu diễn phép cộng nhị phân trong Tin học.
Những ai dù chỉ một lần đã từng đốt nén hương,
chân thành đặt lên bàn thờ, hay thắp trên ngôi mộ của
người quá cố, thì họ coi như đã chấp nhận có một
thế giới tâm linh – thế giới phi vật chất.
Bài
viết này chỉ dành riêng cho những ai muốn phá chấp
(không chấp trước) và muốn tìm hiểu về tâm linh. Khoa
học rất cần phá chấp. Có phá chấp mới có khám phá,
phát minh và sáng tạo.
* * *
Danh hiệu Quán Thế
Âm (QTÂ) hay còn gọi là Quán Tự Tại được dịch từ
tiếng Sanskrit – Avalokitesvara. Thế Âm là âm thanh thế
gian, quán là quán tưởng hay là lắng nghe. Vậy QTÂ nghĩa
là lắng nghe âm thanh thế gian – âm thanh cuộc đời
– một loại siêu âm thanh, khác nghĩa với siêu âm
(ultrasound) được dùng trong khoa học.
Theo kinh Phật,
QTÂ không có gia phả ở Ấn Độ như Đức Phật Thích
Ca. Theo truyền thuyết Ấn Độ, QTÂ là Đại Bồ Tát từ
thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà (QTÂ được hóa
sinh từ hào quang phóng ra nơi mắt phải của Đức Phật
A Di Đà), nhưng vì Ngài có nhiều nhân duyên với chúng
sinh ở cõi Ta Bà nên Ngài đã trợ giúp Phật Thích Ca
tuyên dương Chính pháp và cứu giúp chúng sinh hoạn nạn,
khổ đau. Chính vì thế mà ta thường nghe câu tụng: “Nam
mô Quán Thế Âm Bồ Tát, đại từ, đại bi, cứu khổ
cứu nạn!”
QTÂ
cũng không phải là hình tướng nam hay nữ. Tuy nhiên có
nhiều mẩu chuyện khác nhau kể về QTÂ ở những quốc
gia vào các thời đại khác nhau nên mới có sự phân
biệt. Ở Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Bồ
Tát QTÂ tượng trưng cho Tình thương của người Mẹ đầy
lòng từ bi luôn sẵn sàng cứu độ chúng sinh. Ngài thường
ban cho mọi người Pháp Vô úy (không sợ hãi) để tiêu
trừ mọi khổ não.
Truyền thuyết kể rằng, từ quá
khứ xa xưa QTÂ là một hoàng tử có tên Bất Huyền, con
vua Vô Tránh Niệm, rất sùng kính vị Phật thời bấy giờ
là Bảo Tạng Như Lai. Thái tử đã quan sát chúng sinh
trong vô số thế giới, đã nghe được tiếng kêu cầu
của chúng sinh khổ nạn nên phải chịu đau khổ và phát
tâm từ bi cứu giúp thế gian. Thái tử đã được thọ
pháp với Đức Bảo Tạng Như Lai và được Ngài đặt
danh hiệu là QTÂ. Sau khi Thái tử thọ pháp, các thế giới
phát ra những âm thanh kỳ diệu, ai nghe cũng được tâm
thanh tịnh, dục vọng (sự ham muốn) không còn, nỗi khổ
được tiêu trừ. Đó gọi là âm thanh thế gian chứa
trong nghĩa QTÂ theo cách giải thích của nhà Phật.
Trong
Kinh Lăng Nghiêm, Phật Thích Ca nói QTÂ tu hạnh “Phản
văn văn tự tính” (văn – nghĩa chữ Hán là nghe), ý
muốn nói quay lại lắng nghe âm thanh nội tại của mình.
Ở đây muốn chỉ cái nghe không phải bằng tai bình
thường, mà là sự trực nhận được bản thể của
vạn pháp, nghĩa là mọi vật và mọi việc được biết
một cách chân thật. Lúc đó sẽ đạt được Chân như ý
– tri kiến Phật.
Tâm
Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (BNBLMĐ) viết: “Quán Thế
Âm Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa, thời chiếu
kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”,
nghĩa là Bồ Tát QTÂ khi thiền quán thâm sâu Tâm Kinh (tức
diệu pháp trí độ), bỗng soi thấy 5 uẩn đều không có
tự tính. Sau khi thực chứng điều ấy, Ngài vượt thoát
tất cả mọi khổ đau ách nạn. Tâm Kinh là kinh tinh
yếu. Bát Nhã Ba La Mật Đa – PRAJNAPARAMITA - theo nghĩa
tiếng Sanskrit: PRAJNA là trí tuệ, PARAM là vượt ra ngoài,
ITA là bậc, đấng. Vậy BNBLMĐ là trí tuệ đã vượt ra
ngoài, thường được dịch là Trí tuệ đã đến bờ bên
kia. Bờ bên kia là Giải thoát – Tự do tuyệt đối.
Bờ bên kia không phải là đối lập với bờ bên này,
đối lập với thế giới thực tại, mà bờ bên kia là
sự thức tỉnh, thấy rõ thực tại. QTÂ đã quán
chiếu Tâm Kinh bằng phương pháp nghe âm thanh nội tại
(phản văn) để đạt sự thức tỉnh hay thực chứng
thế giới vạn vật. Muốn thức tỉnh (giác ngộ) hay
thấy rõ thực tại, chúng ta không thể dùng giác quan để
nhận biết, hay nói theo nghĩa Quán Âm là không thể nghe
âm thanh thực bằng tai được.
Chúng ta biết rằng khi
nghe, các âm thanh được truyền đến màng nhĩ, làm rung
động nó, hay nói theo khoa học, thì xẩy ra sự cộng
hưởng của các dao động âm tần. Từ màng nhĩ các rung
động đó được cảm ứng (điện từ) và tạo ra những
tín hiệu (xung thần kinh) truyền qua những nơ ron (tế bào
thần kinh) vào khu trung tâm thần kinh thính giác. Màng nhĩ
chỉ cho phép cộng hưởng được với các sóng có tần
số từ khoảng 20Hz đến 20.000Hz, gọi là dải âm tần.
(1Hz = 1dao động hình sin/1 giây). Những âm thanh tương úng
với tần số ngoài dải này, tai chúng ta không phục hồi
được. Mặt khác, khi một âm thanh phát ra từ một nguồn
nào đó, nó đều bị biến dạng tùy theo môi trường mà
sóng âm truyền qua (như không khí, nước). Các sóng âm
còn bị các vật chắn cản trở hoặc phản xạ gây các
hiệu ứng đặc biệt. Ví dụ, khi ta nói to trong hang núi,
ta nghe được tiếng vọng do va đập vào vách núi mà vang
lại nhiều lần như có ai đó đang nhại lại tiếng của
ta. Trong kỹ thuật âm thanh ngày nay, người ta còn tạo ra
các hiệu ứng âm nhờ các thiết bị điện tử để trợ
giúp cho các giọng ca của ca sỹ được hay hơn. Do vậy
mà chúng ta nhiều khi bị lừa dối trong cảm giác nghe.
Nếu chúng ta khảo sát thêm về cấu trúc bên trong của
cơ thể như gen, các tế bào với các hoạt động lý,
sinh, hóa thì còn phát hiện bao điều sai lệch khác nữa
về việc nhận biết thông tin dưới dạng tín hiệu âm
thanh. Về quan điểm sóng thì bất kỳ một âm thanh nào
cũng đều được tạo ra bằng cách tổng hợp từ những
dao động hình sin với một tần số xác định. Đó là
nguyên lý chập chồng ứng với một biểu thức toán học
gọi là chuỗi Fourier. Điều này cho thấy các tín
hiệu âm thanh mà ta nghe thấy mang tính giả hợp.
Như
vậy, do hạn chế về mặt cấu trúc vật chất của màng
nhĩ cũng như tính giả hợp của quá trình truyền sóng âm
trong không gian, việc nhận biết âm thanh không thể đạt
được tính chân thật. Từ đây ta cũng có thể suy diễn
đối với các giác quan khác về việc nhận biết thực
tại từ môi trường xung quanh. Ánh sáng mà mắt người
nhìn thấy được cũng là những sóng có tần số từ
3,4x10 mũ 14 đến 7,5x10 mũ 14 Hz đặc trưng cho các màu
đỏ, vàng, cam, lục, lam, chàm và tím. Vì ánh sáng là
sóng nên nó cũng được truyền thẳng và có những đặc
tính như phản xạ, khúc xạ, nhiễu xạ, phân cực, giao
thoa qua môi trường trước khi đến mắt. Hình ảnh của
một vật cũng bị quy luật chập chồng và giả hợp chi
phối. Thực ra, không cần phải dựa vào những lý thuyết
phức tạp trong khoa học, chúng ta cũng có thể dễ dàng
nhận thức được về những cảm giác sai lầm trên, như
khi ta cho bàn tay vào một chậu nước 5 độ C, vào mùa hè
và vào mùa đông ta sẽ có những cảm giác hoàn toàn khác
nhau. Hoặc trạng thái tâm lý của chúng ta (đang buồn hay
đang vui) sẽ ảnh hưởng rất lớn trong việc thưởng
thức một món ăn (ngon hay không), một khúc nhạc (hay hoặc
dở). “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!”
Các
giác quan của con người là nguyên nhân gây ra sự nhận
định sai lầm về thế giới hiện tượng, và do vậy mà
nhà Phật đã nói cõi trần gian là ảo mộng, không thực,
hay mọi vật đều không có tự tính.
Ngũ uẩn
là năm mối liên kết của các giác quan con người (gồm
tai, mắt, mũi, lưỡi, da) với thế giới vật chất. Năm
uẩn đó là: Sắc, Thụ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc
– hình tướng của các đối tượng, Thụ – tiếp
nhận tín hiệu từ đối tượng, Tưởng – xử lý
các dữ liệu, Hành – tác động, Thức –
nhận biết đối tượng. Sắc thái của một vật (âm
thanh, màu sắc, hương, vị, xúc) được tiếp nhận (thụ)
bằng những tín hiệu qua các giác quan (mắt, tai, mũi,
lưỡi, da). Cơ quan thần kinh tương ứng sẽ cảm nhận và
xử lý chúng (tưởng), sau đó dẫn đến sự tác
động (hành) của trí não và hình thành quá trình
nhận dạng (thức) đối tượng đang khảo sát. Toàn
bộ quá trình này hoạt động trong não bộ không khác gì
bộ xử lý (processing unit) cùng bộ nhớ (memory) của một
máy tính (computer) với 5 giác quan là những bộ nhập dữ
liệu (input). Do những sai lệch về dữ liệu (tín
hiệu đầu vào) khi tiếp nhận hiện tượng qua các giác
quan, mà 5 uẩn không có tính riêng biệt. Một hiện tượng
này đều phải nương nhờ vào hiện tượng khác mà có.
Để có được ý niệm về hạt gạo, ta phải liên kết
những khái niệm khác nhau như cây lúa, phân, giống, thời
tiết nắng mưa, sự chăm sóc của người nông dân, rồi
phải qua những công đoạn xay xát, bảo quản, vận chuyển
. . . và sau đó phải giải thích từng khái niệm. Mỗi
khái niệm thường được đặt một cái tên bằng một
ngôn từ và con người đã tạo ra ngôn ngữ là vì thế.
Ngôn ngữ gồm tiếng nói và chữ viết. Chữ viết
thành lập từ các ký hiệu, tiếng nói – từ những âm
thanh. Âm thanh – từ xa xưa con người đã sử dụng
để biểu đạt những hiện tượng và trao đổi thông
tin. Đó là Logos trong tiếng Hy Lạp, Ngôi lời
trong Thánh kinh, nhạc Trời trong Đạo, âm lưu
trong Đạo Phật. Còn trong khoa học là Tiếng Nổ Big Bang
– tiếng chào đời của Vũ trụ – đánh dấu thời điểm
ra đời của các thiên hà và sự sống.
Ta biết
rằng âm nhạc là điều không thể thiếu được trong
cuộc sống. Một đứa bé khi còn nằm trong bụng mẹ, nó
nhờ nguồn năng lượng của âm thanh nội tại mà phát
triển. Khi mới chào đời nó cảm thấy hụt hẫng, thiếu
mất âm thanh đó nên đã thấy đau đớn mà phát ra tiếng
khóc. Nhưng sau đó nó lại nín lặng và ngủ yên trong
tiếng ru êm ái của người mẹ. Nó đã gặp lại phiên
bản mà cứ tưởng là âm thanh thật – nguồn năng lượng
đã sáng tạo ra nó và giúp nó trưởng thành. Âm thanh
thật – đó chính là Sức sống và Tình thương, mà
QTÂ đã lắng nghe được để nhận chân mọi hiện thực
của thế gian. Điều này giúp ta lý giải thêm tại sao
QTÂ từ hình tướng nam giới ở Ấn Độ khi qua các nước
Đông Á lại chuyển thành nữ giới.
Như
vậy bằng tai thường, chúng ta chỉ nghe được các phiên
bản của âm thanh này. Phải chăng ta có thể xâu chuỗi
những điều đã trình bày trên đây, để phần nào nương
nhờ vào đó và gắng hiểu về nghĩa của Âm thanh thế
gian – Siêu âm thanh trong Quán Thế Âm, như Đức Thích
Ca đã từng dạy: “Ngón tay không phải là mặt Trăng
mà là công cụ để chỉ và giúp ta nhìn biết mặt
Trăng”. Ngôn ngữ cũng vậy, nó chỉ là công cụ
diễn đạt chứ không phải là sự vật. Cái rắc rối là
vì chúng ta thường hay bám víu vào ngôn ngữ và khái niệm
để nhận thức sự vật để rồi gây ra những cách hiểu
khác nhau và thế mới phải tìm đến sự giải thích
trong từ điển, có khi còn phải tranh luận. Điều đó
trong Phật Giáo gọi là vọng tưởng, hay mọi vật
và mọi việc (tức vạn pháp) đều do vọng tâm sinh ra.
Vì thế trong sách nhà Phật mới có câu thế giới
thật đảo điên và dẫn dụ câu chuyện về bốn người
mù xem Voi để nhắc nhở người đời: người sờ thấy
chân thì bảo là cột đình, sờ thấy tai thì cho voi là
cái quạt, còn sờ đuôi thi nói voi là cái chổi, nên mới
tranh cãi mãi không ai thắng ai, bởi họ vẫn còn vô minh.
Cảm giác là không thật – “Ngũ uẩn đều giai
không”.
Chữ “không” ở đây không phải nghĩa
là không có mà phải hiểu là rỗng (empty). Trong rỗng bao
gồm mọi thứ (tức vạn pháp), tựa như quả bóng rỗng,
không phải là không có gì bên trong, mà nó chứa đầy
không khí. Dưới con mắt của nhà vật lý hạt nhân hay
chân không thì mọi vật chất đều có cấu trúc hạt,
các hạt luôn chuyển động với những vận tốc rất
nhanh và khoảng cách giữa chúng lại cực kỳ lớn so với
kích thước bé nhỏ của chúng. Trong thế giới vi mô đó,
mọi vật (hạt gạo hay con voi, con người hay bông hoa) đều
là rỗng, nhưng lại chứa đầy các hạt, và đằng sau
tất cả là một quy luật điều khiển chúng – một Trí
tuệ siêu đẳng. Rỗng mà lại đầy? Loay hoay với
ngôn từ, ta lại thấy thế gian thật là điên đảo!
Chính vì vậy mà Thiền giả rất “ghét” ngôn từ và
loại bỏ mọi phép biện luận: “Bất lập văn tự”.
Triết lý của Thiền là Tĩnh Lặng.
Theo phép Thiền thì
tốt nhất là tự mình chứng nghiệm lấy, như QTÂ hướng
vào bên trong để nghe âm thanh của chính mình. Vì một
cái bánh có tự mình nếm thì mới biết nó ngon như thế
nào, còn chỉ nghe quảng cáo, dù có hay đến đâu, cũng
không thể giúp ta nhận biết được hương vị của nó.
Cái thiếu chính xác của ngôn ngữ lại giải thích thêm
cho ta sự sai lệch về nhận thức về thế giới tự
nhiên. Tuy nhiên, nhiều khi vẫn phải dùng đến ngôn từ
và lý luận để trao đổi đôi điều như ta đang làm từ
đầu đến bây giờ.
Những ví dụ trên cho phép ta kết
luận: nhận thức của con người về thế giới hiện
tựơng thường bị sai lệch, trước hết là do các giác
quan (tai, mắt, mũi, lưỡi, da), sau đó là do tính không
chính xác của ngôn từ và khái niệm (ý) mà trong Phật
giáo gọi là lục căn.
Việc nhận biệt được
chân lý trong tâm linh xẩy ra hoàn toàn khác và diễn biến
ở một mức độ cao hơn nhiều mà với những hiểu biết
khoa học như hiện nay và bằng những ngôn ngữ thông
thường thì rất khó mà diễn đạt nổi. Muốn nhận biết
thực tại, trước hết cần phải xóa đi tất cả các
định kiến, vượt lên trên những kiến thức thông
thường để đạt tới một cấp độ cao hơn về nhận
thức, gọi là tâm thức siêu đẳng (super spiritual
consciousness). Lúc đó ta có thể “nghe” được siêu âm
thanh của thế giới như Bồ Tát QTÂ vậy. Thực chất,
ngôn từ “siêu âm thanh” muốn nói trên đây là âm
thanh nội tại. Nó là một cấu trúc sóng-hạt có năng
lượng, mang thông tin và chính nó đã tạo ra thế giới
vật chất trong đó có sự sống. Hiện nay khoa học
đang nghiên cứu vấn đề này dưới những chuyên khảo
như năng lượng sinh học, hào quang cơ thể, tiềm năng
con người, trường thông tin toàn thể, lý thuyết toàn đồ
(hologram). Mong rằng không xa nữa, các ngành khoa học với
những phát minh mới sẽ chứng minh được những điều
mà Phật giáo đã đề cập từ ngàn xưa, khi trên trái
đất chưa từng có khoa học.
Chính Einstein cũng đã
từng nói: “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu
được với các nhu cầu của khoa học hiện đại, thì đó
sẽ là Phật giáo. Phật Giáo không cần xét lại quan điểm
của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới
của khoa học. Phật Giáo không cần phải từ bỏ quan
điểm của mình để hướng theo khoa học, vì Phật Giáo
bao trùm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học”.
(If there is any religion that would cope with modern scientiphic
needs, it would be Buddhism. Buddhism requires no revision to keep it
up to date with recent scientiphic finding. Buddhism need no
surrender its views to science, because it embraces science as well
as goes beyond science).
Mọi việc Tốt – Xấu (hay Sinh –
Tử) đều do các khái niệm và nhận thức của con người,
hay do tâm tạo ra cả (vọng tâm). Chúng đều mang tính
giả hợp. Nghĩa là nếu ta chú tâm phân tích một hiện
tượng theo chiều tiêu cực, sự việc sẽ trở nên cay
đắng, còn theo chiều tích cực thì ta thấy yên vui, tùy
theo cách ta nhìn con Voi theo hướng nào. Chính khi chúng ta
không còn tâm phân biệt như kiểu đánh giá của những
người mù xem voi kia thì đâu còn cảm thấy đau khổ.
Nhận biết được điều này là ta đã ngộ ra được đôi
điều và hiểu rõ hơn câu “Sau khi thực chứng điều
ấy, Ngài (QTÂ) vượt thoát tất cả mọi khổ đau ách
nạn” như trong Tâm Kinh đã dạy. Học theo Ngài, ta
cũng sẽ vượt qua được bao khổ đau và tự tại hơn
trong cuộc sống đời thường và ta sẽ thấm nhuần hơn
câu
“Phật
giáo chỉ đường lìa mê về bến giác.”
Đó là giá trị nhân bản của Tâm Kinh.
Quang
Lâm
Bình luận