Mấy chục năm liền, bà giáo B. Machejko làm việc tại „Studium Jezyka Polskiego dla Cudzoziemcow” nổi tiếng – trường dạy tiếng Ba Lan cho người nước ngoài, thuộc Đại học tổng hợp thành phố Lodz. Tôi cũng từng học tiếng Ba Lan ở đấy. Tuy không được làm sinh viên của bà, nhưng nghe kể rất nhiều về bà. Bà từng dạy dỗ nhiều thế hệ sinh viên và nghiên cứu sinh Việt Nam và đã sang Việt Nam làm việc tại Đại Học Ngoại Ngữ Thanh Xuân Hà Nội vào những năm 1975-1977 và 1986-1990. Đối với đất nước Việt Nam và người Việt, bà có một sự quý mến và cảm thông đặc biệt. Người Việt chúng ta có truyền thống „tôn sư trọng đạo”, nhưng tình cảm của lưu học sinh Việt Nam với bà giáo Machejko thì không chỉ do truyền thống mà còn hơn thế nữa.
Vài năm trước, tôi được mời tham dự cuộc gặp mặt của các bạn lưu học sinh năm dưới, học trò cũ của bà giáo Machejko, nhân dịp kỷ niệm 30 năm đến Ba Lan. Buổi gặp mặt tất nhiên không thể thiếu bà. Tôi rất cảm động nhìn thấy các bạn trân trọng cô giáo cũ của mình đến mức độ nào. Chính vì vậy, khi được Lê Kiếm, một trong số các bạn ấy, đề nghị tôi viết về bà giáo, tôi lập tức nhận lời. Chúng tôi gặp bà tại một quán ăn của bạn Tuấn Anh, cũng là học trò cũ của bà giáo. Tôi cho rằng nhửng hồi tưởng của bà giáo về Việt Nam và người Việt rất đáng quan tâm, vì phần nào phản ánh được một giai đoạn lịch sử đã qua của nước nhà. Sau đây là nội dung cuộc trò chuyện của chúng tôi.
- Thưa cô, đã hai lần cô đến Việt Nam dạy tiếng Ba Lan cho nghiên cứu sinh và sinh viên Việt Nam. Cuộc sống những ngày đầu của cô ở Việt Nam như thế nào? - Tôi hỏi.
- Trong những năm 1975-1977 điều kiện rất khó khăn và theo cách nói của Ba Lan thì đấy là điều kiện của nước Sparta1 thời thượng cổ! - bà trả lời rồi hỏi – Các em có hiểu không?
-Vâng, chúng em hiểu! – Bọn tôi đồng thanh trả lời.
- Hồi ấy tôi sống ở khách sạn Kim Liên - bà nói tiếp. – Mười phòng mới có một cái tủ lạnh, nước không phải lúc nào cũng có. Nước chứa trong một cái thùng to. Sáng ra mỗi người chúng tôi nhận được một phích nước sôi. Hà Nội (sau chiến tranh) bị phá huỷ nặng nề. Nhà ga xe lửa bị mất một nửa. Khi đi du lịch Thanh Hoá, tôi ngạc nhiên tự hỏi: sao hai bên đường lại có những cái hồ chứa nước con con? Hoá ra đấy là những hố bom đầy nước. Năm 1976 nhà trường tổ chức cho chúng tôi lên Pắc Bó, cả chặng đường không có lấy một cái cầu, xe qua sông phải lội ở chỗ nước nông. Dân rất nghèo. Đàn ông phần lớn mặc quần áo xanh như bộ đội. Ô tô hầu như không có, nếu có cái nào thì thường là không có đèn pha. Mọi người đều đi xe đạp cả. Điều làm chúng tôi ngạc nhiên là mọi thứ người Việt đều chở được bằng xe đạp và xe đạp lại có thể chịu được trọng tải, số lượng đồ đạc và người đến như vậy. Môt tô xe máy hầu như không gặp. Hàng ngày một chiếc xe Volga của Nga, lái xe người Việt, chở bốn thầy cô giáo chúng tôi, những người mang quốc tịch khác nhau, đến trường.
Điều kiện học tập ở trường cũng rất khó khăn. Không có tài liệu hỗ trợ. Giáo viên phải tự biên soạn tất cả các bài tập. Tôi viết tay, còn cô giáo Oanh (cùng dạy tiếng Ba Lan với tôi) đánh máy lại. Đồ nghề dạy học quan trọng nhất là bảng và phấn. Tôi có mang theo từ Lodz sang giáo trình tiếng Ba Lan, nhưng phải chờ đến học kỳ II mới dùng được. Lớp học rất đông, có khoảng 60 sinh viên và nghiên cứu sinh. Tôi còn nhớ giữa phòng học và nhà ở có một mảnh vườn. Hết tiết học họ ra vườn trồng.
- Vì sao cô lại có quyết định sang Việt Nam? – Bạn Kiếm hỏi.
- Trước tôi thì có cô K.Budzianka sang Hà Nội làm việc nhưng chỉ được 7 tháng thì về vì không chịu được khí hậu. Cô ấy còn có vấn đề về sức khoẻ. Nhưng cô cũng chuẩn bị được rất nhiều bài tập giúp cho tôi và những người đi sau. Cô B. Budzianka về và kể rằng bên ấy điều kiện khó khăn, khí hậu khắc nhiệt nên chẳng ai muốn sang cả. Thày hiệu trưởng Studium bực và chắc cũng nói đùa là sẽ tìm giáo viên ở ngoài đường phố!
Về nhà,tôi nói với chồng con: „Nhà mình thì chẳng bao giờ có điều kiện tài chính để có thể tham quan châu Á. Tôi thì yêu du lịch thích tham quan. Nếu tôi đi mới thấy được thế giới bên ngoài. Bố con anh sang thăm tôi cũng là dịp đi du lịch”. Chồng con tôi đồng ý. Thế là tôi đi, mang theo xà phòng, thuốc đánh răng, sách vở và một số thứ mà tôi cho rằng sẽ cần thiết.
Bấy giờ là đầu tháng 11. Tôi bay qua Moskva và nghỉ chân ở đó, vì vậy phải có ít quần áo rét. Nhưng đến Việt Nam thì khí hậu vẫn còn ấm áp. Ở Việt Nam thời ấy mua bán cái gì cũng khó khăn. Tôi vào cửa hàng dành cho người nước ngoài mua cái cốc nhựa để đánh răng. Không ngờ lại không mua được, vì tôi không có thẻ ngoại giao. Trong cửa hàng có một phụ nữ Mông Cổ. Chúng tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Nga, và chị ấy bảo: bà lấy thẻ của tôi mà mua. Lần đầu tiên mua bán ở Việt Nam là như vậy.
Tôi đến Việt Nam một thời gian ngắn thì xẩy ra một hiện tượng khủng khiếp: mùa đông Việt Nam! Giữa tháng 12 nhiệt độ khoảng 30 độ C. Ngày thứ hai của lễ Giáng sinh, nhiệt độ bất ngờ hạ xuống đến 18 độ, bắt đầu „mùa đông thế kỷ” của Việt Nam. Sau này tôi đọc sách địa lý xuất bản ở Ba Lan, thấy viết 150 năm về trước mới có một mùa đông khắc nhiệt như thế. Rét khủng khiếp. Quần áo ấm tôi dùng ở Moskva bây giờ mới trở thành quý giá. Nhưng phiền nhất là giường chiếu cứ bị ẩm. Khi đó anh bạn ở sứ quán cho tôi mượn cái máy sấy, đặt ở gầm giường để sấy đệm. Các anh kỹ sư Ba Lan tôi quen, làm việc ở nhà máy xe lửa Gia Lâm, lại lắp cho tôi cái bóng điện trong tủ cho quần áo khỏi ướt. Thương nhất là người Việt. Họ không quen với nhiệt độ thấp, khoảng 16-18 độ C, độ ẩm không khí 90%, khác nào ngâm mình trong nước lạnh. Năm sau thì ngược lại, nóng không thể nào mà chịu được…
Thức ăn thức uống cũng vậy. Chúng tôi có nhà ăn ở khách sạn Kim Liên, ở đấy có thể ăn trưa, còn bữa sáng bữa tối thì không. Thực phẩm rất khó mua. Ngoài chợ, nhất là chợ Đồng Xuân, có rau, hoa quả, cá. Còn sữa, dầu rán, bột mỳ, thịt thì không có Sau đó tôi làm quen với người Nga và họ mua hộ thức ăn trong cửa hàng của họ mà tôi thì thậm chí không được vào. Rồi bạn bè ở sứ quán cũng mua hộ trong cửa hàng ngoại giao. Thời tôi đến Việt Nam lần đầu, ở Hà Nội có hai nữ sinh viên Ba Lan học tiếng Việt, Ola và Teresa. Mỗi khi có tin tầu Ba Lan cập cảng ở Hải Phòng, chúng tôi xin họ chở xuống cảng. Rồi lên tầu đàm phán với thuyền trưởng và nhận được thức ăn Ba Lan, thịt hộp, sữa hộp và… cải bắp muối chua. Ola nấu ăn rất ngon. Về Kim Liên, chúng tôi làm tiệc mời các bạn bè Ba Lan và Nga. Hai cô sinh viên bấy giờ sống ở ký túc xá dành cho người nước ngoài. Ở đấy có người Đức, người Cu Ba. Mỗi khi nhận được thức ăn trên tầu đem về, các cô cũng nấu ăn trong ký túc xá mời các bạn.
- Cô có thích các món ăn Việt Nam không? – Bạn Kiếm hỏi.
- Tôi rất thích các món ăn Trung Quốc và Việt Nam. Chỉ có mùi nước mắm là một thử thách rất nặng nề với tôi. Tôi không thể ngửi được cái mùi này. Trong nhà ăn tôi đẩy lọ nước mắm ra thật xa, nhưng cũng chẳng ăn thua gì. Cuối cùng mấy anh bạn Ba Lan làm việc ở Nhà máy Xe lửa Gia Lâm bảo: „Chị cứ thử xem. Ngon lắm”. Một lần tôi rưới nước mắm vào cơm và thấy ngon thật. Từ đấy tôi mới biết. Mùi vẫn không hợp với tôi, nhưng nước mắm làm tăng vị thức ăn đến mức khi ăn các món Việt Nam lúc nào tôi cũng cho thêm nước mắm.
- Bấy giờ nghèo khổ, chúng em ăn cơm chỉ có nước mắm thôi – bạn Kiếm nói. Ở nhà quê thậm chí nước mắm cũng chẳng có – tôi nói thêm.
- Bấy giờ sau chiến tranh. Tôi còn nhớ một cậu sinh viên nông thôn học rất giỏi, nhưng có mỗi một chiếc áo sơ mi, cổ áo còn vá. Tôi cảm thấy rất thương. Các bạn bè mỗi người còn có một hai chiếc áo, còn cậu ấy thì không có lấy một tấm áo lành. Vì vậy tôi rất hiểu tình cảnh của các em. Các em đến Ba Lan ăn mặc như nhau, trước khi đi, mỗi người nhận được một bộ com lê của bộ (đại học). Ở Lodz tôi tìm việc cho các em, vì học bổng chẳng đáng là bao, để các em có thêm tiền mua bán. Nhà có cái máy khâu, tôi cũng mang vào ký túc xá, để đấy mấy năm cho sinh viên tự may quần áo. Bây giờ cứ trông thấy các thanh niên Việt Nam cầm điện thoại di động hay dùng laptop, các cô gái Việt Nam ăn mặc lịch sự thì tôi lại nhớ đến những sinh viên nghèo của tôi những năm 70-80.
Thời kỳ đầu sống ở Việt Nam tôi còn có một hồi tưởng rất hay. Như các em biết, đại sứ quán Ba Lan ở gần quảng trường Ba Đình. Bấy giờ còn chưa có lăng Hồ Chí Minh. Vào độ tháng tư tháng năm, dưới những cột đèn quanh quảng trường, sinh viên học sinh mang sách vở đến học đông nghịt, vì nhiều nhà riêng bấy giờ không có điện. Thỉnh thoảng công an lại đến đuổi, vì Ba Đình là chỗ đại diện và đẹp nhất của thành phố. Nhưng công an đi rồi thì họ lại đến và học tiếp. Buổi chiều tôi đi xe đạp quanh thành phố, ở cột đèn nào cũng có người học, vì bấy giờ đương là mùa thi.
- Mặc dù điều kiện như ở nước Sparta thời cổ, nhưng cô vẫn sang làm việc ở Việt Nam một lần nữa. Lý do gì khiến cô quyết định như vậy? – Tôi hỏi.
- Đối với Việt Nam và người Việt tôi có một tình cảm rất sâu nặng. Khi có cơ hội sang Việt Nam một lần nữa, tôi nghĩ rằng tuổi tôi ngày một cao, đã sắp đến lúc về hưu, nên đây là dịp cuối cùng có thể đi được. Các nghiên cứu sinh và sinh viên Việt Nam của tôi kể rằng Việt Nam đã thay đổi nhiều lắm. Tôi muốn sang, chứng kiến những sự đổi thay ấy. Ngoài ra còn một lý do nữa. Lần trước ở Việt Nam, tôi chưa vào được miền nam, điều kiện bấy giờ chưa cho phép. Ở miền bắc tôi đã thăm chùa Hương, vịnh Hạ Long, hang Pắc Pó, vườn quốc gia Cúc Phương… Tôi tham dự tất cả các chuyến du lịch do nhà trường và khách sạn Kim Liên tổ chức quanh vùng Hà Nội. Nhưng miền nam Việt Nam thì tôi chưa vào. Tôi sang cũng một phần là vì muốn thăm nửa thứ hai của Việt Nam.
Điều kiện sống lần này cũng đã khác. Trong khách sạn tôi đã có tủ lạnh riêng, trong phòng có điều hoà nhiệt độ. Ở trường cũng đã có nhiều tài liệu tham khảo để học tiếng Ba Lan. Lớp học được trang bị đầy đủ hơn. Và lần này thì tôi được thấy miền nam. Hai lần tôi có dịp đi ô tô vào Huế, một lần do nhà trường tổ chức, còn một lần do Văn phòng Tuỳ viên Thương mại của sứ quán và cơ quan thương mại nào đó của Việt Nam mời. Trong chuyến đi này, tôi tham quan Vinh, quê Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế, Hội An và vùng lân cận. Đèo Hải Vân và đường vòng về phía Đà Nẵng đã gây cho tôi một ấn không thể nào quên. Tôi cũng vào Sài Gòn mấy lần. Hai lần đi chính thức, trong đó một lần theo nhà trường, còn một lần – đấy là cuộc du ngoạn rất thú vị - theo phái đoàn khánh thành đường tầu hoả Hà Nội-Sài Gòn được xây dựng lại sau chiến tranh. Việc thế này: các kỹ sư ở thành phố Wroclaw, chơi rất thân với tôi, bấy giờ làm việc tại Nhà máy Xe lửa Gia Lâm. Họ giám sát sản xuất toa tầu, toa thường cũng như toa có chỗ ngủ. Đến lễ khánh thành đường tầu, chính phủ Việt Nam mời ngài đại sứ cùng phu nhân, tuỳ viên thương mại, các nhà báo và các kỹ sư Ba Lan làm việc ở Gia Lâm. Các bạn kỹ sư của tôi đề nghị mời cả cô giáo Ba Lan dạy tiếng cho sinh viên Việt Nam. Thế là tôi được mời và được đi trong toa có chỗ ngủ từ Hà Nội vào Sài Gòn. Dọc đường chúng tôi dừng chân ở Huế, Đà Nẵng và Nha Trang, nhưng hơi tiếc là rất ngắn. Trong tầu chúng tồi trò chuyện, hát hò. Từ Sài Gòn chúng tôi đi ô tô đến Vũng Tầu. Đấy là một cuộc du ngoạn rất thú vị. Chúng tôi trở lại Hà Nội bằng máy bay.
À, các em có biết tôi bị gẫy chân ở Hà Nội không?
Chúng em không biết.
Tôi đi xe đạp, lúc vòng thì vị một người Việt lao vào bánh trước. Chân gẫy được mổ ở Hà Nội. Trong bệnh viện có anh nghiên cứu sinh học trò cũ của tôi đến thăm. Anh làm việc trong bệnh viện này, nhưng lại là chuyên gia về tâm thần, chứ không phải là bác sĩ chấn thương chỉnh hình. Bà giáo sư về chấn thương chỉnh hình và anh học trò cũ khuyện tôi nên về Ba Lan chữa chạy. Và tôi nghe theo. Khi đã chống nạng đi lại được, tôi trở lại Việt Nam. Nhưng lần này có chồng tôi đi cùng để chăm sóc tôi. Anh ấy mang theo cả máy quay phim quay cho hãng Truyền hình Ba Lan (anh là phóng viên TVP). Và đợt ấy tôi cùng nhà tôi tự túc vào Sài Gòn. Chúng tôi ở trong lãnh sự quán Ba Lan và tham quan thành phố. Chỉ có điều chồng tôi biết nhiều hơn tôi, vì năm 1975 sau chiến tranh, anh bay sang đây cùng đoàn Truyền hình Ba Lan, còn tôi khi ấy không có mặt.
- Ngoài những địa danh kể trên, cô còn thăm những nơi nào nữa?
- Hễ đại sứ quán hoặc Văn phòng Tuỳ viên Thương mại tổ chức du lịch, bao giờ tôi cũng xin họ cho đi. Thường là những cuộc du ngoạn ngắn, một hai ngày vào dịp cuối tuần hoặc tết nhất. Vì thế tôi thăm được nhiều địa danh không xa Hà Nội như Đồ Sơn, Sầm Sơn, Tam Đảo. Hoà Bình. Chỉ có một lần đi xa đến Điện Biên Phủ. Tôi đã đọc nhiều về trận chiến này và rất muốn đến đây. Hồi ấy là dịp lễ Phục Sinh năm 1990. Chỉ còn hai tháng nữa là tôi xong công việc và không còn ở Hà Nội nữa. Đấy cũng coi như cuộc du lịch chia tay với Việt Nam.
- Cô đã từng dạy cả người Việt lẫn sinh viên các nước khác. Ngoài hình dáng bên ngoài, họ còn khác nhau ở những điểm gì? – Tôi hỏi.
- Tiếng Ba Lan rất khó, khó cả về ngữ pháp lẫn âm điệu. Nhưng như các em biết, là có thể học được. Người châu Phi học nhanh, vì mỗi người đều biết tiếng Pháp hoặc tiếng Anh. Ngoài ra họ không gặp khó khăn về phát âm như người Việt. Người Ả Rập có khả năng, nhưng không cần cù như người Việt. Người Việt có thuận lợi hơn người Ả Rập, người Lào, người Afganistan, vì rằng họ biết chữ La Tinh mà tiếng Ba Lan cũng dùng. Vấn đề rất khó khăn của người Việt là học phát âm chuẩn bằng tiếng Ba Lan. Không phải ai cũng đạt được điều đó. Tất nhiên có những trường hợp ngoại lệ. Cùng dạy tiếng với tôi ở Hà Nội những năm 1975-1977 có ông Lê Đình Tư.Tôi phải thừa nhận là ông Tư nói tiếng Ba Lan tốt lạ lùng. Khi con gái và chồng tôi sang Việt Nam, nghe ông Tư nói, chồng tôi bảo: “Tắt điện đi thì không ai biết rằng đây là người nước ngoài”. Cô giáo Oanh (đã nhắc đến ở trên) nói tiếng Ba Lan cũng tuyệt vời. Tất nhiên đây đương nói đến nghững người Việt lần đầu đến Ba Lan. Họ có khó khăn về phát âm cũng giống nhưnhững sinh viên đến từ châu Mỹ La Tinh. Hầu như ít khi có một người Mỹ La Tinh nào phát âm chuẩn bằng tiếng Ba Lan. Người Việt còn có cái khó nữa so với các sinh viên đến từ các nước khác, vì bị ngăn trở tiếp xúc với người Ba Lan. Họ không luyện tiếng trực tiếp được như người Ả Rập, Lào hay châu Phi. Bây giờ mọi thứ đã thay đổi, nhưng trước kia đấy là vấn đề, cứ nói thẳng là vấn đề chính trị! Tôi còn nhớ hồi làm hiệu phó Studium phụ trách các vấn đề sinh viên, tôi hay tổ chức cho các em giao lưu với thanh niên Ba Lan. Đối với người Việt thì gặp trở ngại. Sinh viên gặp gỡ ở các câu lạc bộ với công nhân, nông dân trẻ, học sinh, các hội viên harcerz (thành viên hội thanh thiếu niên Ba Lan – ND), và không chỉ ở Lodz mà còn ở những thị trấn và nông thôn. Trong một cái xe đến đón còn một chỗ ngồi. Những người Việt một người không đi được, cứ phải hai hoặc ba người. Nghỉ hè tôi tìm việc cho các em ở những chỗ xây dựng hay trong các nhà máy. Lại như thế. Người Việt cứ phải đi vài người một. Như vậy không tốt. Ở nhà các em nói chuyện bằng tiếng Việt, đi làm cũng vậy. Các thầy cô khuyên người Việt ra công viên cạnh trường nói chuyện với trẻ con Ba Lan, thôi thì bằng cách ấy để có thể giao tiếp trực tiếp bằng tiếng Ba Lan.
- Bây giờ cô có mong muốn sang Việt Nam một lần nữa không? – Tôi hỏi.
- Như tôi đã nói, đối với Việt Nam và người Việt Nam tôi có nhiều duyên nợ. Trước khi sang Việt Nam lần đầu, năm 1975, tôi đã làm ở Studium 14 năm, nhưng tôi dạy người Việt,
chỉ một khoá năm 1973. Sau khi ở Việt Nam về, tôi luôn luôn dạy cho lưu học sinh người Việt. Và cứ như vậy kéo dài hơn hai mươi năm. Tôi cũng là người đỡ đầu các lớp Việt Nam ở Studium. Hàng năm chúng tôi cùng tổ chức lễ Tết, triển lãm quảng bá Việt Nam, cùng nhau đi du lịch ở Ba Lan, tổ chức trại hè, Đấy là những dịp tăng thêm tình hữu nghị và thân thiết. Tôi cảm thấy được các sinh viên của quý trọng. Mặc dù tôi nghỉ hưu đã 12 năm, các em vẫn liên lạc gặp gỡ và mời tôi dự lễ Tết.
Ở Việt Nam, như các em thấy, tôi tham quan rất nhiều nơi, tuy vậy nhiều chỗ đẹp vẫn chưa nhìn thấy. Tôi có một sinh viên học ngư nghiệp ở Szczecin. Cậu ấy kể là ở Việt Nam từng đi thực tập trên miền núi ở hồ Ba Bể cực đẹp. Nhưng hồi tôi ở Việt Nam, không có du lịch đến hồ Ba Bể vì không có đường lên. Sau đó những người quen ở sứ quán có đến và về kể, hồ quả thật là rất đẹp. Tôi cũng chưa đến Đà Lạt, lưu vực sông Mê Kông và hang động tuyệt đẹp ở Hạ Long mà bây giờ khách du lịch được thăm. Năm 2008 thày hiệu phó trường Đại học Tổng hợp Lodz đến đấy, về cho tôi xem phim. Trong phim tôi cũng nhìn thấy một khu ở Hà Nội mà tôi không biết là chỗ nào. Hồi tôi ở đấy, chỗ này chưa có.
Các bạn – bà giáo quay sang phía bạn Kiếm – những sinh viên cũ của tôi 20-30 năm về trước có ngỏ lời mời sang Việt Nam. Tôi rất vui và cảm động (bo to bardzo miłe). Tôi rất muốn biết những sự đổi thay ở Việt Nam. Có người bảo, bây giờ tôi sẽ không thể nhận ra ngôi trường, nơi tôi từng làm việc. Tôi cũng muốn tham quan một số nơi mà mình chưa đến được, nhưng ngại là tuổi đã quá cao, đi xa dễ gặp vấn đề về sức khoẻ hoặc khí hậu.Với tôi bây giờ khí hậu Việt nam có lẽ là quá nóng.
Không hiểu tại sao khi ấy tôi chẳng nói gì? Đúng ra tôi nên nói Việt Nam đã thay đổi rất nhiều. Du lịch phát triển. Những cuộc tham quan được tổ chức đến tất cả mọi nơi. Điều kiện tốt hơn hẳn. Trong khách sạn có điều hoà nhiêt độ. Thức ăn phong phú và ngon hơn. Phục vụ và vệ sinh cũng được cải thiện … Vì vậy, cô nên sang.
Trương Đình Toe
Bình luận